Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử

   Thời cổ đại, các nhà hiền triết của Trung Hoa đã có những đóng góp đáng kể vào kho tàng tư tưởng quản lý, trong đó tiêu biểu nhất là hai trường phái “đức trị” và “pháp trị” mà cho tới nay các tư tưởng đó vẫn còn đậm nét trong phong cách quản lý của nhiều nước châu Á. Sau đãy giới thiệu hai tác giả đại diện cho hai trường phải trên là Khổng Tử với tư tưởng “đức trị” và Hàn Phi Tử với tư tưởng “pháp trị”. Nói chung các tư tưởng quản lý cổ đại chủ yểu bàn về các mối quan hệ của đời sống xã hội và phương pháp cai trị đất nước.

Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử

    Các tác phẩm của Hàn Phi Tử tập trung giải quyết những vấn đề chính trị và quản lý – cai trị dựa trên cơ sở triết học vững chắc, trong đó nổi bật lên hai tư tưởng cơ bản: một là, bản chất con người có tính ác, mưu lợi cho bản thân; hai là, lý luận phải tùy thời mới có ích.

   Trong khi Khổng Tử cho ràng bản chất của con người là “thiện” thì Hàn Phi Tử cho rằng con người có tính “ác”. Hàn Phi Tử chù trương dùng hình phạt để ngăn ngừa những hành động của dân có hại cho nước. Theo Hàn Phi Tử, chỉ có một số rất ít thánh nhân có tính thiện, còn đại đa số vốn có tính ác: tranh nhau vì lợi, sẵn sàng giết nhau vì miếng ăn hay chức vị, làm biếng, khi có dư ăn rồi thì không muốn làm gì nữa, chì phục tùng quyền lực. Hơn 2000 năm sau, tư tưởng vị lợi của Hàn Phi Tử được tái hiện trong tư tưởng “con người kinh tổ” – cơ sở’ triết học của thuyết Quản lý theo khoa học của Taylor và “con người lười nhác” trong thuyết X của Mc. Gregor.

    Thực dụng và cực đoan hơn tư tưởng quản lý thời Taylor, Hàn Phi Tử đã mở rộng bản chất vị lợi đến mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Theo ông, quyền lực suy cho cùng cũng chỉ vì quyền lợi vật chất. Đặc biệt ông đã vượt xa thòi đại mình khi nêu ra tư tưởng đấu tranh sinh tổn và giải thích nguyên nhân của sự nghèo khổ là do dân số tăng nhanh, vượt quá sự gia tăng của sản xuất.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghệ thuật quản lý

Ngũ thường trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử

       Có thể nói Khổng Từ là một nhà quản lý – cai trị xuất sắc. Những tư tưởng quản lý của ông thể hiện một triết lý sâu sắc và nhân văn, được xem như nền tảng văn hoá tinh thần cho hậu thế về quản lý xã hội ở nhiều quốc gia theo mô hình “ổn định, kỷ cương và phát triển”.

Ngũ thường trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử

Tư tưởng quản lý của Khổng Tử xuất phát từ quan niệm con người có tính thiện, có lòng nhân từ, từ đó công cụ chủ yếu để cai trị xã hội là “đức”; và các phương pháp chủ yếu để quản lý con người là nêu gương và giáo dục họ.

Ông phân chia các giá trị xã hội thành ngũ thường: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Dũng; chia các mối quan hệ xã hội thành tam cương, bao gồm quan hệ vua – tôi, quan hệ cha – con và quan hệ thầy – trò. Đối với con người, ông chia thành hai loại: quân tử và tiểu nhân. Quân tử là người hiểu biết, là kè sĩ. Người quân tử biết tu thân, tề gia thì có thể trị quốc, bình thiên hạ, có thể làm người cai trị – quản lý, giáo hóa người khác và do tu luyện về đạo đức, trí năng mà thành.

“Nhân” là biết yêuthương người khác, biết giúp đỡ người khác thành công như minh. Dưới góc độ quản lý, “Nhân” trờ thành nguyên tắc cơ bản, quy định hoạt động của chủ thể quản lý trong quan hệ với chính mình và với đối tượng quản lý. Trong ngũ thường, “Nhân” là yếu tổ quan trọng nhất, quy định, chi phối, ảnh hưởng đến các yếu tố khác. Tư tưởng về “Nhân” được Khổng Từ nâng lên thành đạo, trở thành nguyên tắc chung cho toàn xã hội.

“Lễ” là hình thức của Nhân. “Điều gì mình không muốn ai làm cho mình thì không nên làm cho ai”. Thiếu Nhân thì Lễ chỉ là hình thức, giả dối: “Người không có đức Nhân thì Lễ mà làm gì”.

“Nghĩa” là thấy việc gì đáng làm là làm, không mưu tính lợi ích cá nhân. Nghĩa gắnliền với Nhân. Theo ông, “cách ứng xửcủa người quân tử không nhất định là như thệ này mới được, cũng không nhất định là như thế kia thì không được, cứ hợp nghĩa thì làm”. .

“Trí” là hiểu biết, có khả năng hành động có kết quả màkhông bị người khác lợi dụng; hiểu biết sáng suốt mới biết cách giúp người mà không hại cho người và cho mình.

“Dũng”-là kiên cường, quả cảm, dám hy sinh bản thân mình vì mục đích cao cả, dám vượt qua khó khăn để đạt được mục đích. Dũng là biểu hiện, là bộ phận của Nhân. Người Nhân ắt có Dũng, nhưng người Dũng chưa chắc đã có Nhân. “Hữu dũng vô nhân” là nguyên nhân của loạn. Theo Khổng Tử, Nhân – Trí – Dũng là phẩm chất cơ bản của người quân tử và cũng là tiêu chuẩn cơ bản của nhà quản lý – cai trị.


Đọc thêm tại: http://giatriquanlyhoc.blogspot.com/2015/06/nang-luc-cua-nha-lanh-ao-tuong-lai.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghệ thuật quản lý nhân sự

Năng lực của nhà lãnh đạo tương lai

Người giải quyết vấn đề. Khả năng giải quyết vấn đề là vô cùng quan trọng đối với các nhà quản lý ngày nay. Người giải quyết vẩn đề không nhầm lẫn các quan điểm với những tranh cãi, hoặc kết quả với nguyên nhân. Họ có thể đánh giá cả những ý kiến và xây dựng chúng. Khả năng suy nghĩ một cách sắc sảo, đánh giá các bằng chứng một cách công minh, nhận ra những giả thiết ngầm và đi đến cùng những lý lẽ đôi lúc quanh co là đặc tính cần thiết của các nhà quản lý thành công.

Năng lực của nhà lãnh đạo tương lai

Nhà đại sứ nước ngoài. Môi trường toàn cầu đã trở thành một thực tế. Thành công trên thị trường quốc tế đòi hỏi các nhà quản lý sẵn sàng hoạt động một cách hữu hiệu trong môi trường toàn cầu. Các nhà quản lý phải đánh giá được sự khác biệt văn hoá, hiểu được sự phức tạp của môi trường toàn cầu và sẵn sàng điều chỉnh các kỹ năng và chiến lược để giải quyết những thách thức quốc tế.

Nhà thay đổi và sáng tạo. Các nhà quản lý trong tương lai phải có khả năng tạo điều kiện và thích nghi với thay đổi. Các nhà quản lý hữu hiệu không thể sợ hãi bởi các điều kiện môi trường và tổ chức thay đổi, mà phải tận dụng những thay đổi đó và mong muốn ảnh hưởng đến chúng. Trên thực tế các nhà quản lý ngày mai sẽ là người tạo ra sự thay đổi trong chừng mực họ phản ứng một cách tích cực đối với những xu hướng môi trường, tìm kiếm những cách thức mới để đáp ứng nhu cầu khách hàng và khám phá ra những biện pháp để tăng hiệu lực và hiệu quả của tổ chức.

Nhà chính trị. Nhà quản lý cần có năng lực phân tích và diễn giải các xu hướng chính trị, xã hội và kinh tế; đánh giá ảnh hưởng của các quyết định chính trị; phát triển các mối quan hệ; thuyết phục và thương lượng để thúc đẩy mục tiêu của hệ thống mình.

Người học hỏi suốt đời. Các nhà quản lý trong tương lai sẽ không sử dụng một phương thức hoặc kỹ năng để trở nên thành công. Các nhà quảnlý phải xem học hỏi như là hoạt động hàng ngày cần thiết cho hiệu quả của cá nhân và tổ chức. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý tìm kiếm thông tin phù hợp từ các nguồn khác nhau, sẵn sàng chấp nhận rủi ro và chấp nhận khuyết điểm, đón nhận những thay đổi từ sự tăng trường không ngừng.


Đọc thêm tại: http://giatriquanlyhoc.blogspot.com/2015/06/nhung-nang-luc-cua-nha-quan-ly-tuong-lai.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản lý kinh tế

Những năng lực của nhà quản lý tương lai

Nhà truyền thông vĩ đại. Các kỹ năng truyền thông có thể tạo ra hoặc chấm dứt một sự nghiệp. Một nhà lãnh đạo tốt sử dụng thời gian vào việc thông báo, thuyết phục, khuyến khích hơn là trực tiếp làm một cái gì đó. Mặc dù nói là cần thiết, nghe một cách chủ động cũng là một năng lực quản lý quan trọng trong tương lai. Khả năng hiểu và áp dụng các kỹ thuật hoạt động của bạn không tồn tại khi xa rời mọi việc, các giải pháp cũng khó có thể đơn giản nữa. Bạn cần khẩn trương học và đọc với sự tổng hợp, nghe một cách chăm chú, đặt câu hỏi một cách hữu hiệu và viết một cách thuyết phục.

Những năng lực của nhà quản lý tương lai

Nhà đào tạo cá nhân. Giúp đỡ những người khác đạt được khả năng cao nhất là một trong những hoạt động quan trọng nhất của nhà lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo ngày hôm nay nhận ra rằng sự hữu hiệu của tổ chức đòi hỏi nỗ lực rất tốt của tất cả mọi người. Khả năng hướng dẫn, khuyến khích, phản hồi với những người khác là một phần cơ bản của quá trình phát triển những người xung quanh bạn và giúp họ thành công. Nhà đào tạo phải nhận thức được những rào cản hạn chế khả nàng cá nhân và gạt bỏ những rào cản này để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động.

Người chơi trong nhóm. Ngày nay các nhà quản lý sử dụng hầu hết thời gian để làm việc với những người khác và họ phải cổ khả năng thực hiện công việc một cách hữu hiệu cả như là một thành viên của nhóm và một người lãnh đạo. Dù đó là nhóm làm việc trong một tổ chức hay nhóm giữa các tổ chức, nhà quản lý vẫn sẽ đòi hỏi kỹ năng quản lý nhóm mạnh mẽ. Năng suất và hiệu quả có thể được cải thiện khi mọi người làm việc cùng nhau hướng tới mục tiêu chung. Các nhà lãnh đạo chịu trách nhiệm đảm bảo rằng mỗi thành viên của nhóm được lựa chọn đúng đắn, được đào tạo tốt, được khuyến khích để đóng góp theo cách có ý nghĩa nhất vào nỗ lực của nhóm và được khen thưởng xứng đáng cho những đóng góp của họ.

Nhà quản lý công nghệ. Bây giờ đang là thời đại của thông tin. Như Tom Peters lưu ý trong cuốn sách của ông “Phát triển lên trên sự hỗn loạn”: “Công nghệ là một quân bài dữ dội ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của tổ chức”. Hầu hết các tổ chức lớn và nhỏ, coi công nghệ như là một nguồn chiến lược thiết yếu. Các nhà quản lý trong tương lai phải sử dụng một cách hiệu quả công nghệ thông tin.


Các xu hướng tác động lên sự thay đổi của quản lý

Các hệ thống xã hội và tổ chức ngày nay đang thay đổi một cách nhanh chóng. Mặc dù chưa đầy đủ, danh mục các xu hướng được nêu dưới đãy sẽ giúp ích cho việc học tập về quản lý.

Các xu hướng tác động lên sự thay đổi của quản lý

  • Tầm quan trọng ngày càng tăng của vốn tri thức. Chuyển từ niềm tin vào sự cần thiết phải thu hút được nhiều lao động chăm chỉ làm việc sang niềm tin vào tập hợp của tri thức, kinh nghiệm, sự cam kết và sức sáng tạo của các thành viên. Các tổ chức có kết quả hoạt động tốt hơn nếu đối xử với con người tốt hơn, khi không coi người lao động như những khoản chi phí cần kiểm soát mà coi họ như tài sản có giá trị chiến lược cần được nuôi dưỡng và phát triển.

  • Công nghệ đã trở thành động lực cơ bản của sự pliảt triển. Các sản phẩm, dịch vụ dựa trên công nghệ mới tạo điều kiện cho các tổ chức đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Những cơ hội mới xuất hiện cùng với sự phát triển của công nghệ máy tính và thông tin tiếp tục làm thay đổi cách tổ chức vận hành và con người làm việc. Chính phủ điện tử góp phần phát triển các nhà nước nhỏ hơn nhưng hiệu lực, hiệu quả cao hơn. Các tổ chức với cơ cấu không ranh giới hoạt động với phương châm nhỏ hơn, năng động hơn ngày càng chiếm ưu thế.

  • Hội nhập quốc tổ dẫn đến sự phụ thuộc tương hỗ, cạnh tranh và hợp tác giữa các tổ chức, các quốc gia trên phạm vi toàn cầu. Sự phát triển của công nghệ (đặc biệt là truyền thông và giao thông) kết hợp với việc dỡ bỏ điều tiết đổi với thị trường và mở cửa biên giới đã mở rộng và làm tăng tổc độ luận chuyển của nhân lực, tài chính, thông tin, sản phẩm và dịch vụ.

  • Nhấn mạnh tầm quan trọng của làm việc nhóm. Cáctổ chức ngày nay được dẫn dắt bởi các nhóm làm việc có khả năng thu hút nhân tài cho việc giải quyết vấn đề một cách sáng tạo.

  • Thời cơ của làm việc theo mạng lưới. Các tổ chức ngày nay làm việc theo mạng lưới để có thể phối hợp và truyền thông một cách mạnhmẽ, theo thời gian thực, cả ở bên trong giữa các bộ phận và bên ngoài với các đối tác, nhà thầu, nhà cung cấp và khách hàng.

  • Sự kỳ vọng vào lực lượng lao động mới. Thể hệ người lao động mới mang vào nơi làm việc quan điểm của họ về sự không khoan nhượng với hệ thống thứ bậc và mối quan hệ quan liêu, sự quan tâm đến năng lực thực hiện công việc hơn là vị thế và thâm niên.

  • Quan tâm đến sự cân bằng giữa cuộc sống cá nhân và công việc. Xã hội ngày càng phức tạp, con người ngày càng phải chịu nhiều sức ép, người lao động đang buộc các tổ chức quan tâm tới việc đảm bảo sự cân bằng những nhu cầu mâu thuẫn của cống việc và cuộc sống riêng.

  • Tập trung vào tốc độ. Mọi sự vật ngày nay đều diễn ra vô cùng nhanh chóng; ai đưa sản phẩm ra thị trường đầu tiên sẽ chiếm được lợi thế và trong bất cứ tổ chức nào công việc phải được thực hiện một cách tốt nhất và nhanh nhất.

Đọc thêm tạihttp://giatriquanlyhoc.blogspot.com/2015/06/tim-hieu-ve-ky-nang-nhan-thuc.html


 Từ khóa tìm kiếm nhiều: ngành quản lý kinh tế  

Tìm hiểu về kỹ năng nhận thức

Kỹ năng nhận thức

Kỹ năng nhận thức là năng lực phát hiện, phân tích và giải quyết những vấn đề phức tạp.

Trong tất cả những kỹ năng được cho là cần phải có đối với nhà quản lý, có lẽ kỹ năng được đánh giá cao và được nhấn mạnh nhất chính là năng lực phân tích và giải quyết vấn đề. Nhà quản lý phải có khả năng bao quát được bức tranh toàn cảnh về thực trạng và xu thế biến động của hệ thống do mình phụ trách và của môi trường; nhận ra được những yếu tổ chính trong mỗi hoàn cảnh; nhận thức được mối quan hệ giữa các bộ phận trong hệ thống và mối quan hệ của hệ thống với môi trường. Họ phải nhanh chóng xác định được vấn đề; hiểu rõ và giải thích được dữ liệu và thông tin; sử dụng được thông tin để xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề; lựa chọn được những giải pháp tổi ưu nhất; biết cách lập luận và đưa ra các cam kết trong những tình huống phức tạp; trình bày một cách sáng sủa các ý tưởng trong bài viết, văn chương lưu loát.


Tìm hiểu về kỹ năng nhận thức


Không chi biết ra quyết định, nhà quản lý là người dám ra quyết định; dám chịu trách nhiệm trước quyết định của mình.

Tầm quan trọng tương đối của các kỹ năng trên có thể thay đổi đối với các cấp khác nhau trong tổ chức. Như thể hiện trên Hình 1-12, kỹ năng kỹthuật có vai trò lớn nhất ở cấp quản lý cơ sờ. Vai trò đó giảm dần đổi với cấp quản lý bậc trung và có ý nghĩa khá nhỏ đổi với cấp cao. Kỹ năng thực hiện các mối quan hệ con người có ý nghĩa quan trọng đối với mọi cấp quản lý. Tuy nhiên, đổi với nhà quản lý cấp cơ sở đó là khả năng thiết lập và củng cố mối quan hệ với những người trong phạm vi một nhóm. Khi một người đã được đề bạt lên cấp cao hơn trong tổ chức, quan hệ giữa các nhóm trở nên có tầm quan trọng lớn hơn. Loại hình quan hệ này không chi diễn ra với các bộ phận khác nhau mà còn với các nhóm bên ngoài tổ chức như khách hàng, nhà cung ứng, nhà phân phối, nhà nước, xã hội, v.v. Kỳ năng nhận thức có vai trò nhỏ đối với nhà quản lý cấp cơ sở; trở nên quan trọng hơn đối với cấp trung; và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cấp cao. Nhiều người cho ràng, đối với các tổ chức lớn, các nhà quản lý cấp cao có thể sử dụng được kỹ năng kỹ thuật của cấp dưới. Ngược lại, ở các tổ chức nhỏ, kinh nghiệm về kỹ thuật có vai trò quan trọng đối với mọi nhà quản lý, cho dù họ ở cấp cao đi chăng nữa.

Tất cả các nhà quản lý phải có kỹ năng kỹ thuật, con người và nhận thức để có được thành công. Tuy nhiên, như minh hoạ trong hình 1-12, mỗi cấp độ quản lý đòi hỏi một sự tổng hợp tương đổi khác nhau các kỹ năng và tham gia vào một tập hợp các hoạt động tương đối khác nhau. Hơn thế nữa do các nhà quản lý tham gia vào các hoạt động khác nhau ở các cấp độ quản lý khác nhau, họ cần phát triển các kỹ năng mới khi bước lên những bậc thang cao hơn của tổ chức.


Đọc thêm tại: http://giatriquanlyhoc.blogspot.com/2015/06/hoc-tap-e-quan-ly.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản lý học

Học tập để quản lý

Các giáo viên thực hiện giảng dạy thì trưởng bộ môn phải là một giáo viên, có khả năng hướng dẫn các kỹ năng giảng dạy cho cấp dưới của mình. Các kế toán viên thực hiện các quy trình kế toán và kế toán trưởng phải có khả năng hướng dẫn cho họ những quy trình đó. Để quản lý bộ phận đổi ngoại, trưởng phòng đối ngoại phải là một nhà ngoại giao giỏi.


Học tập để quản lý

Gắn liền với việc sử dụng các phương pháp, quy trình và công cụ cụ thể, để có kỹ năng kỹ thuật, nhà quản lý phải được đào tạo và phải trải qua kinh nghiệm thực tế. Điều đó giải thích tại sao khi tuyển người vào các chức vụ quản lý, bên cạnh yêu cầu về bằng cấp bao giờ cũng có yêu cầu về kinh nghiệm chuyên môn.

Kỹ năng con người

Kỹ năng con người (hay kỹ nâng làm việc với con người) là năng lực của một người có thể làm việc trong mỗi quan hệ hợp tác với những người khác, bao hàm những kỹ năng cụ thể sau:


  • Đánh giá đúng con người, có khả năng thấu hiểu và thông cảm với những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của con người;

  • Có khả năng giành quyền lực và tạo ảnh hưởng;

  • Mồm dẻo trong hành vi, có kỹ năng truyền thông và đàm phán;

  • Có khả năng chủ trì các cuộc họp;

  • Sử dụng một cách có nghệ thuật các phương pháp tạo động lực cho con người;

  • Có khả năng xây dựng và làm việc theo nhóm;

  • Giải quyết tốt các xung đột trong tập thể;

  • Có năng lực hợp tác và xây dựng, duy trì mạng lưới quan hệ.

  • Quản lý có hiệu quả thời gian và sự căng thẳng của bản thân, không để các vấn đề cá nhân làm ảnh hưởng đến công việc chung, v.v.

Nhà quản lý có kỹ năng làm việc với con người sẽ tham gia tích cực vào công việc của tập thể, tạo ra được một môi trường trong đó mọi người cảm thấy an toàn, dễ dàng bộc bạch ý kiến vả có thể phát huy triệt để tính sáng tạo. Họ là những người có ý thức cao về bàn thân, có năng lực hiểu và quan tâm đến cảm xúc của những người khác. Điều đó liên quan tới khái

niệm về trí thông minh cảm xúc, được Daniel Goleman – một học giả và nhà tư vấn định nghĩa như là “năng lực quản lý bản thân và các mối quan hệ của chủng ta một cách có hiệu lực”


Đọc thêm tạihttp://giatriquanlyhoc.blogspot.com/2015/06/ac-iem-cong-viec-cua-nha-quan-ly.html



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh tế học quản lý

Đặc điểm công việc của nhà quản lý

Các nhà quản lý không chỉ cần hiểu và làm chủ được các vai trò của minh, họ phải có khả năng triển khai chúng trong điều kiện công việc phức tạp và căng thẳng. Như ví dụ nhập chương đã phản ánh, các nhà quản lý có rất ít thời gian rảnh rỗi cho riêng mình, các vấn đề không mong đợi và các cuộc gặp gỡ liên tục chiếm phần lớn thời gian của họ. Ngày làm việc của họ luôn sôi động và sức ép hoàn thiện liên tục sự thực hiện luôn bủa vây họ. Mintzberg đã rút ra kết luận: “nhà quản lý không bao giờ tự do, không bao giờ quên được công việc, không bao giờ biết đến sự thoải mái của trạng thái không có việc gì để làm. Các nhà quản lý luôn canh cánh nỗi ngờ vực ràng họ có thể thực hiện một việc nào đó theo một cách tốt hơn”. Công việc quản lý luôn bận rộn, đòi hỏi khắt khe và căng thẳng.


Đặc điểm công việc của nhà quản lý

Có thể tóm lược những đặc tính sau đãy của công việc quản lý:

  • Các nhà quản lý làm việc với những nhiệm vụ đa dạng và nhiều khi vụn vặt.

  • Các nhà quản lý làm việc liên tục, ít khi được nghỉ ngơi.

  • Các nhà quản lý làm việc với nhịp độ căng thẳng.

  • Các nhà quản lý làm việc với nhiều phương tiện truyền thông.

  • Các nhà quản lý thực hiện công việc của họ chủ yếu thông qua mối quan hệ con người.

Chính từ những đặc tính trên của công việc quản lý mà John Kotter, một nhà tư vấn và nghiên cứu quản lý, đã cho rằng có hai hoạt động mang tính then chốt đối với thành công của một nhà quản lý, đó là: thiết lập chương trình nghị sự và làm việc theo mạng lưới. Thông quathiết lập chương trình nghị sự, nhà quản lý giỏiphát triển các ưu tiên hành động cho thục hiện mục đích, bao gồm các mục tiêu và kế hoạch trong khuôn khổ ngắn và dài hạn.

Các nhà quản lý giỏi triển khai các chương trình nghị sự của mình thông qua làm việc với nhiều người bên trong và bên ngoài tổ chức. Điều đỏ có thể thực hiện bànglàm việc theo mạng lưới – quá trình xây dựng và duy trì các moi quan hệ tích cực với những người mà sự giúp đờ của họ có thể cần thiết cho triển khai các chương trình nghị sự. 



Vai trò người phân bổ nguồn lực

Vai trò người phân bổ nguồn lực liên quan đến các quyết định phân bổ thời gian, nhân lực, tải lực, thiết bị, thông tin và các nguồn lực khác nhằm thu được kết quả mong muốn. Cách mà các nhà quản lý hàng đầu phân bổ nguồn lực, đặc biệt là thời gian thường gửi đi thông điệp mạnh mẽ về những điều thực sự quan trọng đối với hệ thống theo quan điểm của họ.


Vai trò người phân bổ nguồn lực

Vai trò người đàm phán liên quan đến những cuộc thương lượng chính thức và mặc cả không chính thức nhàm thu được kết quà cho hệ thống của mình. Trong một thế giới hội nhập với sự tham gia của vô vàn chủ thể có mục đích, văn hóa và khả năng về nguồn lực khác nhau, đàm phán đã trờ thành kỹ năng bậc cao, không thể thiếu đối với mọi nhà quản lý.

Sự thay đổi trong vai trò của nhà quản lý Cindy Zollinger, chủ tịch Cornerstone Research, quản lý trực tiếp 24 người đã khẳng định ràng: “Tôi thực sự không quản lý người của mình theo cách truyền thống. Họ tự mình hành động và tôi giúp đỡ họ tận dụng các cơ hội và giải quyết các vấn đề mà họ phải đối mặt”. Chúng ta đang ở giai đoạn mà một nhà quản lý tốt được biết đến như người “giúp đỡ” và “hỗ trợ” hơn là người “định hướng” và “ra chỉ thị”. Những từ như “phối hợp”, “huấn luyện”, “lãnh đạo nhóm”, “ủy quyền”, được nghe thường xuyên hơn là những từ như “người giám sát”, “thủ trưởng”. Nhà quản lý tốt có đầy đủ thông tin liên quan đến nhu cầu của những người có trách nhiệm báo cáo cho họ, Họ thường được tìm đến như một người có thể cho lời khuyên xác đáng và phát triển được sự trợ giúp cần thiết để người khác có thể xây dựng năng lực, phát huy tốt nhất khả năng sáng tạo của mình.

Khái niệm về kim tự tháp ngược phù hợp với mô tả của Cindy Zollinger và phản ánh sự thay đổi tính chất của công việc quản lý ngày nay (hình 1-11). Thay bằng nằm ở đáy của kim tự tháp, những người lao động trực tiếp nằm ở đỉnh, chỉ dưới các khách hàng mà họ phục vụ và được hỗ trợ bởi các nhà quản lý để có thể phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.


Đọc thêm tạihttp://giatriquanlyhoc.blogspot.com/2015/06/vai-tro-quyet-inh.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghệ thuật quản lý

Vai trò quyết định

Vai trò quyết định liên quan đến các quá trình quyết định, ở đãy một lần nữa chúng ta lại thấy vai trò trung tâm của nhà quản lý vì chỉ họ mới có thẩm quyền chính thức để đưa hệ thống đến với đường lối hành động mới.


Vai trò quyết định

Nhà quản lý phải đưa ra những lựa chọn. Ueberroth (1986) đã nêu ra ý tưởng này một cách sinh động: “từ lâu tôi đã rút ra một điều là nếu bạn đang chuẩn bị đảm nhiệm một vị trí, thì hãy đảm nhiệm nó. Quyền lực 20% là được trao cho và 80% là phải cố gắng mới có. Khi bạn nắm giữ một vị trí, bạn có quyền hành toàn diện và tuyệt đối và những quyết định của bạn có thể làm cho mọi thứ thay đổi”. Hầu như không mấy ai nghi ngờ thực tế rằng việc một nhà quản lý không đảm nhiệm vai trò quyết định một cách đúng đắn có thể làm phương hại đến hệ thống mà họ quản lý.

Một vai trò quyết định mà nhà quản lý đảm nhiệm đó là nhà doanh nghiệp. Vai trò nhà doanh nghiệp liên quan đến năng lực khởi xướng cái mới của nhà quản lý. Dù hoạt động trong khu vực tư, nhà nước hay phi lợi

nhuận, các nhà quản !ý đều cần có tư duy của nhà kinh doanh: vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của môi trường nội bộ và những lề thói cũ, sẵn sàng hội nhập với môi trường rộng lớn hơn; nhanh chóng chớp lấy cơ hội, tận dụng được các nguồn lực sẵn có và huy động được các nguồn lực tiềm năng; sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm; có thiên hướng hành động và hướng tới kết quả.

Với vai trò người giải quyết tình trạng hỗn loạn, nhà quản lý tiến hành giải quyết xung đột giữa các thuộc cấp, hay giữa hệ thống của họ với các hệ thống khác. Cũng có lúc họ lại là người khích thích các xung đột có lợi. Với tư cách là Tư lệnh tổi cao của lực lượng đồng minh từ năm 1943- 1945, Dwight D. Eisenhower buộc phải sử dụng thòi gian quý giá của mình để hòa giải giữa Đô đốc Montgomery người Anh và tướng Patton người Mỹ. Rõ ràng đáng ra ông phải dành thời gian cho việc đánh quân Đức hơn là hòa giải cho hai cải tôi khá lớn trong số các đồng minh của mình, Nhưng một phần tạo nên sự vĩ đại của Eisenhower với tư cách là người chỉ huy chính là khả năng giải quyết tình trạng hỗn loạn và duy trì sự hợp tác giữa người Anh, người Mỹ và các lực lượng khác trong trận chiến trên lục địa Châu Âu.


Đọc thêm tạihttp://giatriquanlyhoc.blogspot.com/2015/06/vai-tro-nguoi-lien-lac-va-thong-tin.html



Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghệ thuật quản lý nhân sự

Vai trò người liên lạc và thông tin

Vai trò người liên lạc

     Liên quan đến việc phát triển mối quan hệ cả ở bên trong và với bên ngoài tổ chức. Trong trường hợp của cô Chi hay Parma trong bài tập tình huống ở cuối chương, chúng ta nhìn thấy không chỉ các nhà quản lý luôn sẵn sàng trước mặt các nhân viên. Công nghệ hiện đại giúp các nhà quản lý dễ dàng hơn trong việc mở rộng và duy trì mạng lưới quan hệ rộng lớn. Nhưng công nghệ cũng không cho phép nhà quản lý ngồi thu lu trong văn phòng của mình suốt cả ngày, họ vẫn sẽ thực hành khả năng quản lý thông qua các cuộc tiếp xúc trực tiếp với các bên có liên quan (management by walking around – MBWR).

Vai trò người liên lạc và thông tin

     Nếu các nhà quản lý muốn hình thành nên môi trường của mình chứ không mãi mãi bị rập khuôn và kiềm chế bởi nó, họ phải thực hiện thêm vai trò nhà chính trị – hiểu được cách mà quyền lực, ảnh hưởng phát huy tác dụng trong và giữa các tổ chức; có thể phát triển mạng lưới quan hệ bên trong và ngoài tổ chức; biết hành động khôn khéo để đạt mục tiêu. Những ai có tài năng chuyên môn và quản lý cần phải là những chính trị gia tài ba. Xã hội sẽ thiệt thòi rất nhiều khi những người tài năng lỗi lạc lại quá kém cói về chính trị đến nỗi chi đóng góp được một tỷ lệ nhỏ nhoi trong khối tài năng của họ. Điều này là đặc biệt quan trọng đối với các nhà quản lý trong các tổ chức công.

Vai trò thông tin

     Nhóm vai trò quản lý thứ hai do Mintzberg xác định là vai trò thông tin. Trong vai trò thông tin, các nhà quản lý chịu trách nhiệm đảm bảo rằng những người mà họ làm việc cùng phải có được thông tin đầy đủ để thực hiện công việc một cách hữu hiệu. Với trách nhiệm của mình, nhà quản lý trở thành trung tâm thông tin của đơn vị họ và là nguồn thông tin cho những nhóm khác trong và bên ngoài tổ chức. Mọi người trong tổ chức phụ thuộc vào cấu trúc quản lý và các nhà quản lý để truyền bá hoặc được phép tiếp cận thông tin họ cần để thực hiện công việc.

     Một vai trò thông tin mà nhà quản lý phải có đó là người giám sát. Nhà quản lý rà soát liên tục môi trường bên trong và bên ngoài tổ chức để có dược thông tin hữu ích. Các nhà quản lý kiếm tìm thông tin từ nhân viên cấp dưới hoặc các mối liên hệ khác và có thể nhận được thông tin tự nguyện từ mạng lưới các mối quan hệ cá nhân. Từ thông tin nảy, các nhàquản lý xác định cơ hội và thách thức tiềm năng đối với nhóm làm việc và tổ chức.

     Trong vai trò người truyền bá, nhà quản lý chia sẻ và phân bổ thông tin họ nhận được. Nhà quản lý chuyển những thông tin quan trọng tới các thành viên trong nhóm làm việc của họ. Phụ thuộc vào đặc điểm của thông tin, nhà quản lý có thể từ chối không cung cấp thông tin cho các thành viên của nhóm. Quan họng nhất, các nhà quản lý phải đảm bảo rằng nhân viên của họ có được thông tin cần thiết để thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu lực và hiệu quả.

     Vai trò thông tin cuối cùng mà nhà quản lý đảm trách là người phát ngôn. Nhà quản lý phải thường xuyên liên lạc thông tin với các cá nhân bên ngoài đơn vị và tổ chức. Ví dụ, các nhà đầu tư phải được thông báo về hoạt động tài chính và định hướng chiến lược của tổ chức, dân chúng phải được đảm bảo rằng tổ chức đang thực hiện trách nhiệm xã hội, các quan chức chính phủ phải chắc chắn rằng tổ chức đang hoạt động tuân theo pháp luật.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản lý kinh tế

Các vai trò điển hình cửa nhà quản lý

     Có lẽ mọi chuyên gia về quản lý đều đồng ý rằng cách tiếp cận theo các chức năng quản lý không phản ánh hết tính đa dạng và phức tạp của công việc mà các nhà quản lý thực hiện. Trong hoạt động hàng ngày, bên cạnh lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát, nhà quản lý còn có các nghĩa vụ khác nữa. Henry Mintzberg đã tiến hành nghiên cứu công việc của các nhà quản lý và nhận thấy rằng họ thường xuyên thực hiện ba nhóm vai trò là vai trò liên kết con người, vai trò thông tin và vai trò quyết định. 


Các vai trò điển hình của nhà quản lý


Vai trò liên kết con người

      Vai trò liên kết con người liên quan đến mối quan hệ với những người khác bên trong và bên ngoài hệ thống. Vai trò này xuất hiện trực tiếp từ cơ sở quyền lực chính thức của nhà quản lý. Ba vai trò liên kết con người mà nhà quản lý đảm nhiệm là người đại diện, người lãnh đạo và người liên lạc.

     Vai trò người đại diện, nhà quản lý là người đại diện cho đơn vị mình trong hoạt động mang tính nghi thức hoặc tượng trưng. Sẽ sai lầm nếu cho rằng vai trò này chỉ có ở các vị vua, hoàng hậu hay các vị đại sứ. Nhà quản lý thực hiện vai trò này khi chào hỏi khách, trao phần thưởng, ký văn bản, tham gia các sự kiện xã hội, ăn trưa với các đối tác quan trọng. Khi Perter Ueberroth, Chủ tịch ủy ban tổ chức Olimpic phi lợi nhuận, mặc những bộ trang phục khác nhau mồi ngày trong thời gian thi đấu – bộ xanh kiểu nhân viên lái xe buýt, bộ áo trắng kiểu người phục vụ bếp, bộ vàng kiểu người gác cổng – ông ta đang sử dụng các hình thức tượng trưng để khích lệ tinh thần.

      Vai trò người lãnh đạo được thực hiện nhằm tạo ra, duy trì và nâng cao động lực cho người lao động, hướng cố gắng của họ tới mục tiêu chung của hệ thống. Vai trò này bao gồm việc giao tiếp, cổ vũ, khuyển khích, gây ảnh hưởng, tư vẩn, giải quyết xung đột, v.v. Hãy nhớ cách cô Chi thực hiện công việc thông qua người khác. Mintzberg (1975) đã viết: “trong hầu hết các cuộc tiếp xúc với các nhà quản lý, các thuộc cấp thường tìm thấy manh mối sự lãnh đạo với câu hòi: Cô ấy có tiến bộ không? Cô ấy muốn báo cáo phải như thế nào? Cô ấy quan tâm đến kết quả công việc hay chi phí?


Phạm vi, mối quan hệ và loại hình tổ chức

Theo phạm vi quản lý

      Các tổ chức thường được miêu tả như tập hợp của các nhóm hoạt động có mối quan hệ gần gũi hay còn gọi là các chức năng. Phụ thuộc vào phạm vi hoạt động mà một người chịu trách nhiệm quản lý, ông (bà) ta có thể là nhà quản lý chức năng hay nhà quản lý tổng hợp.


Phạm vi, mối quan hệ và loại hình tổ chức
     
Nhà quản lý chức năng là người chỉ chịu trách nhiệm đối với một chức năng hoạt động của tổ chức, như quản lý tài chính, quản lý nguồn nhân lực, quản lý sản xuất, v.v. Các nhóm làm việc theo chức năng có xu hướng tương đổi đồng nhất. Các thành viên của nhóm thường có nền tảng đào tạo giống nhau và thực hiện những nhiệm vụ tương đồng. Các nhà quản lý chức năng thường có nền tảng giống như các nhân viên mà họ quản lý. Các kỹ năng kỹ thuật của họ thường tương đổi mạnh mẽ do họ được thăng tiến từ lĩnh vực của nhóm làm việc. Thách thức lớn nhất đối với các nhà quản lý chức nâng là hiểu và phát triển được mối quan hệ giữa nhóm làm việc của họ với các đơn vị khác trong tổ chức, đồng thời đảm bảo rằng các thành viên trong đơn vị hiểu được vai trò của họ trong toàn tổ chức.

      Nhà quản lý tổng hợp là người chịu trách nhiệm đối với những đơn vị phức tạp, đa chức năng như tổ chức, chỉ nhảnh hay đơn vị hoạt động độc lập. Một tổ chức vừa và nhỏ có thể chỉ có một vài nhà quản lý tổng hợp như hiệu trưởng và các phó hiệu trưởng một trường phổ thông. Một tổ chức lớn có thể cần nhiều nhà quản lý tổng hợp, phụ trách các đơn vị mang tính độc lập tương đối. Do quản lý nhiều loại bộ phận khác nhau, kỹ năng chuyên môn của nhà quản lý tổng hợp có thể không sâu như kỹ năng của những người mà họ quản lý. Tuy vậy, nhà quản lý tổng hợp phải phối hợp được các nhóm người khác nhau, phải đảm bảo rằng các bộ phận trong tổ chức cùng hoạt động một cách hữu hiệu, như vậy tổ chức sẽ đạt được mục tiêu chung.

Theo mối quan hệ với đầu ra của tổ chức.

     Theo cách phân loại này, các nhà quản lý chia làm các nhà quản lý theo tuyến và các nhà quản lý tham mưu.

     Nhà quản lý theo tuyến chịu trách nhiệm đối với các công việc có đóng góp trực tiếp vào việc tạo ra đầu ra của tổ chức. Ví dụ về các nhà quản lý theo tuyến trong một trường đại học là hiệu trưởng, trưởng khoa, trưởng bộ môn.


Nhà quản lý tham mưu sử dụng kỹ nâng kỹ thuật đặc biệt để cho lời khuyên và hễ trợ những người lao động theo tuyển. Trong trường đại học, trưởng phòng nhân sự, trưởng phòng tài chính, trưởng phòng tổng hợp chính là những nhà quản lý tham mưu.

    Giữa các loại nhà quản lý kể trên cần có sự đồng bộ cân xứng về cà số lượng, kỹ năng, tác phong làm việc…, thì mới có thể quản lý tổ chức đạt hiệu lực và hiệu quả mong muốn, thích ứng với mọi biến động của môi trường.

Theo loại hình tổ chức

Ở Việt Nam, tùy loại hình tổ chức, các nhà quản lý thường được gọi như sau:

Các nhà quản trị trong tổ chức kinh doanh.

Các nhà quản lý trong tổ chức phi lợi nhuận.

Các nhà quản lý hoặc nhà hành chính trong các cơ quan quản lý nhà nước.




Từ khóa tìm kiếm nhiều: ngành quản lý kinh tế  

Phân loại nhà quản lý

      Trong tổ chức, các nhà quản lý chủ yếu được phân loại theo ba tiêu chí: theo cấp quản lý, theo phạm vi của hoạt động quản lý và theo mối quan hệ với đầu ra của tổ chức. Các nhà quản lý làm việc ở các tổ chức khác nhau có thể cũng có tên gọi khác nhau.

Phân loại nhà quản lý

Theo cấp quản lý

     Theo cấp quản lý, các nhà quản lý được chia làm ba loại: nhà quản lý cấp cao, nhà quản lý cấp trung và nhà quản lý cấp cơ sở.

     Nhà quản lý cấp cao là những người chịu trách nhiệm đối với sự thực hiện của toàn tổ chức hay một phân hệ lớn của tổ chức.Các chức vụ quản lý cấp cao trong cơ quan bộ có thể kể đến bộ trưởng và các thứ trưởng. Trong một trường đại học, các nhà quản lý cấp cao là hiệu trường và các phó hiệu trưởng. Trong một doanh nghiệp, các nhà quản lý cấp cao là tổng giám đốc (giám đốc) và các phó tổng giám đốc (phó giám đốc). Họ có nhiệm vụ phải quan tâm đặc biệt đến môi trường bên ngoài, chú ý đến các cơ hội và vấn đề tiềm năng, phát triển các cách thức hợp lý để tận dụng các cơ hội và giải quyết các vấn đề đó. Các nhà quản lý cấp cao tạo ra và truyền thông tầm nhìn chiến lược, đảm bảo các chiến lược tương thích với mục đích của hệ thống mà họ chịu trách nhiệm quản lý. Các nhà quản lý cấp cao phải là những người có tư duy chiến lược, có năng lực ra quyết định trong điều kiện cạnh tranh và không chắc chắn.

      Nhà quản lý cấp trung là những người chịu trách nhiệm quản lý các đơn vịvà phân hệ của to chức, được tạo nên bởi các bộ phận mang tính cơ sở. Thuật ngữ nhả quản lý cấp trung có thể bao hàm một vài cấp quản lý. Họ là người lãnh đạo của một số nhà quản lý cấp thấp hơn và phải báo cáo cho các nhà quản lý cấp cao hơn. Các nhà quản lý cấp trung làm việc với các nhà quản lý cấp cao và phối hợp với các nhà quản lý đồng cấp để phát triển và triển khai các kế hoạch hành động nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược.

     Nhà quản lý cấp cơ sở là người chịu trách nhiệm trước công việc của những người lao động trực tiếp.Họ không kiểm soát hoạt động của các nhà quản lý khác. Ví dụ về nhà quản lý cấp cơ sở trong một trường đại học là trường bộ môn, trưởng bộ phận; trong doanh nghiệp là tổ trường, đốc công, quản đốc. Các nhà quản lý cấp cơ sở thường được gọi là các giám sát viên.

     Việc một nhà quản lý có trách nhiệm đảm bảo cho hệ thống do họ quản lý đạt được mục tiêu và chịu trách nhiệm về sự thực hiện trước ai đó được gọi làtrách nhiệm giải trình. Một nhà quản lý cấp cơ sở chịu trách nhiệm giải trinh trước nhóm và nhà quản lý cấp trung, nhà quản lý cấp trung chịu trách nhiệm giải trinh trước đơn vị và nhà quản lý cấp cao.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản lý học

Lãnh đạo là một thử thách đối với bạn

     Giả sử bạn và vài người bạn của mình quyết định sẽ đi du lịch xuyên Lào – Campuchia vào mùa hè sang năm. Không ai trong các bạn biết rõ về nước Lào, Campuchia và bạn được lựa chọn làm trưởng nhóm. Bạn sẽ bắt đầu từ đầu ?

Lãnh đạo là một thử thách đối với bạn

     Bạn sẽ bắt đầu bằng lập kế hoạch. Bạn cần xác định điều nhóm của bạn muốn đạt được qua chuyến du lịch, thời gian nhóm sẽ khởi hành và trở về, những địa điểm mà nhóm sẽ thăm quan, phương tiện được sử dụng để đến được những nơi đó, bao nhiêu tiền sẽ cần cho chuyến đi, v.v.

     Tất nhiên là bạn sẽ cần tới sự giúp đỡ của ai đó trong nhóm và lúc đó bạn sẽ thực hiện hoạt động tổ chức. Ví dụ, bạn giao nhiệm vụ cho Hương xem xét chuyến bay của các hãng hàng không và giá vé, Giang kiểm tra giá phòng khách sạn và giá các bữa ăn, Nam tìm những địa điểm có thể thăm quan và phương tiện di chuyển giữa các địa điểm đó. Tất nhiên lả Hương, Giang và Nam không tự mình thực hiện các công việc đó, họ cần sự chi dẫn và phối hợp của bạn. Hương không thể quyết định thời gian của các chuyến bay bởi vì cô ấy không biết các bạn bắt đầu thăm quan thành phổ nào và kết thúc chuyến đi ở đãu. Giang không thể biết lịch dừng chân ở các nhà nghi cho đến khi có thông tin từ Nam về địa điểm và thời gian thăm quan. Là trưởng nhóm, bạn sẽ phải phối hợp hoạt động của ba bạn kể trên.

      Lãnh đạo cũng sẽ là một thử thách đối với bạn,chẳng hạn giữa Hương và Nam cỏ xảy ra xích mích và bạn sẽ phải đảm bảo mâu thuẫn giữa hai người sẽ không làm hỏng chuyến đi. Giang rất thân thiện với các bạn nhưng không hăng hái-đi du lịch lắm và bạn cần tạo động lực cho cô ấy.

      Cuối cùng, bạn cần chắc chắn rằng mọi việc liên quan đến chuyến đi nằm trong “tầm kiểm soát ít nhất để khởi hành, bạn phải đảm bảo vé máy bay đã được mua, nhà nghỉ đã được đặt và kế hoạch về hành trình bên Lào và Campuchia đã được rà soát để không cỏ sai sót nào.




Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh tế học quản lý

Công việc của các nhà quản lý

       Khái niệm trên làm sáng tỏ ba khía của công việc quản lý. Thứ nhất, nhà quản lý bao giờ cũng chịu trách nhiệm đối với sự cống hiến – trên vai họ là trách nhiệm thực hiện mục đích của hệ thống do họ quản lý. Thứ hai, nhà quản lý làm cho công việc được thực hiện thông qua người khác, họ không phải là những người lao động trực tiếp. Thứ ba, các nhà quản lý phải có kỹ năng lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát nếu họ muốn thực hiện được mục đích chung một cách có hiệu lực và hiệu quả.

Công việc của các nhà quản lý

      Công việc của các nhà quản lý là rất quan trọng và đầy thử thách. Bất cứ nhà quản lý nào cũng không chỉ chịu trách nhiệm trước công việc của mình mà phải chịu trách nhiệm trước sự thực hiện của nhóm làm việc, bộ phận hay toàn tổ chức. ‘’Những người khác” chính là nguồn lực con người cần thiết cho hoạt động của tổ chức. Theo Henry Mintzberg, nhà quản lý thực hiện những công việc quan trọng và mang trách nhiệm xã hội cao “không có công việc nào cần thiết cho xã hội của chúng ta hon công việc của nhà quản lý. Chính nhà quản lý là người quyết định các thể chế của xã hội phục vụ chúng ta tốt hay chúng lãng phí tài năng và nguồn lực củachúng ta. Đã đến lúc quên đi những câu chuyện cổ tích về công việc quản lý và là lúc học tập để chúng ta có thể bắt đầu nhiệm vụ khó khăn trong vai trò nhà quản lý ngày nay ».

     Quản lý thể hiện trong một số hoạt động mà bạn vẫn thực hiện hàng ngày. Trong một tổ chức, những người lao động trực tiếp cùng làm quản lý một lúc nào đó. Ví dụ, trưởng phòng marketing có thể đề nghị một chuyên gia phân tích môi trường đứng đầu nhóm phân tích tiềm năng của một dịch vụ mới. Hoặc ông hiệu trưởng có thể đề nghị trợ lý của mình quản lý việc chuẩn bị bữa tiệc nhân ngày 20/11. Mỗi người lao động cần biết làm quản lý như thế nào bởi vì họ phải quản lý bản thần và không ai biết khi nào cơ hội quản lý người khác sẽ đến. Dù mối quan tâm nghề nghiệp của bạn là gì, một ngày nào đó bạn có thể trờ thành nhà quản lý. Nhân viên kể toán trở thành nhà quản lý, người bán hàng trờ thành nhà quản lý và các nhà khoa học máy tính cùng như các kỹ sư cũng vậy. Một số nhạc sỹ là nhà quản lý, một số diễn viên cùng vậy. Trên thực tế kể cả các giáo sư cũng có thể trở thành các nhà quản lý. Nếu bạn thành công trong sự nghiệp đã lựa chọn và có kỹ năng quản lý và lãnh đạo, bạn có thể được cất nhắc để quản lý những người khác.


Tính nghệ thuật của quản lý

     Tính nghệ thuật của quản lý xuất phát từ tính đa dạng phong phú, muôn hình muôn vẻ của các sự vật và hiện tượng trong xã hội và quản lý. Không phải mọi hiện tượng đều mang tính quy luật và cũng không phải mọi quy luật có liên quan đến hoạt động của các hệ thống xã hội đều đã được nhận thức thành lý luận. Tính nghệ thuật của quản lý còn xuất phát từ bản chất của quản lý hệ thống xã hội, suy cho cùng là tác động tới con người với những nhu cầu hết sức đa dạng, với những toan tính tâm tư tỉnh cảm khó có thể cân đong, đo đếm được.

Tính nghệ thuật của quản lý

      Những mối quan hệ con người luôn luôn đòi hỏi nhà quản lý phải xử lý khéo léo, linh hoạt, “nhu” hay “cương”, “cứng” hay “mềm” và khó có thể trả lời một cách chung nhất thế nào là tốt hon. Tính nghệ thuật của quản lý còn phụ thuộc vào kinh nghiệm và những thuộc tính tâm lý của từng nhà quản lý, vào cơ may và vận rủi, v.v.

Quản lý là một nghề – nghề quản lý

      Đặc điểm này được hiểu theo nghĩa có thể đi học nghề để tham gia các hoạt động quản lý nhưng có thành công hay không? Có giỏi nghề hay không lại còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tổ của nghề (học ở đãu? ai dạy? cách học nghề ra sao? chương trình thế nào? người dạy có thực tâm truyền hết nghề hay không? nàng khiếu nghề nghiệp, ý chí thực hiện mục tiêu, lương tâm nghề nghiệp của người học nghề ra sao? các tiền đề tổi thiểu về nguồn lực ban đầu cho sự hành nghề có bao nhiêu?). Như vậy muốn quản lý có kết quả thì trước tiên nhà quản lý tương lai phải được phát hiện khả năng, được đào tạo chu đáo về nghề nghiệp, được bố trí công việc hợp lý.

NHÀ QUẢN LÝ

Nhà quản lý và phân loại các nhà quản lý

     Như đã khẳng định ờ trên, mặc dù có thề đề cập đến quản lý bản thân hay quản lý gia đình, các nhà quản lý luôn gắn liền với một tổ chức nhất định, dù đó là tổ chức công hay tư, tổ chức vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận. Chính vì vậy trong cuốn sách này chúng ta sẽ nghiên cứu các nhà quản lý trong môi trường tổ chức mà họ làm việc.

Khái niệm nhà quản lý

Nhà quản lý là ai ?

      Bạn có thể tìm thấy họ trong mọi tổ chức. Họ làm việc với nhiều chức danh – lãnh đạo nhóm, giám sát viên, trưởng phòng, trưởng dự án, trưởng khoa, giám đốc, hiệu trưởng, chủ tịch, bộ trưởng, thủ tướng, v.v. Họ luôn làm việc trực tiếp với những người dựa vào họ để có được sự hỗ trợ và giúp đỡ cần thiết trong công việc. Peter Drucker miêu tả công việc của họ là nhằm “làm cho công việc trở nên có năng suất và người làm việc trở nên có hiệu quả. Nói cách khác, nhà quản lý là «người hỗ trợ, làm hoạt động và chịu trách nhiệm đối với công việc của những người khác». Trong cuốn sách này chúng ta định nghĩa “nhà quản lý là người lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo vờ kiểm soát công việc của những người khác để hệ thống do họ quản lý đạt được mục đích của mình».

Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghệ thuật quản lý

Quản lý là một khoa học, một nghệ thuật, một nghề

      Cũng như vậy, quản lý có hiệu lực và hiệu quả luôn là quản lý theo tỉnh huống. Chính bản thân một khái niệm quản lý – bao hàm việc thiết kế một môi trường mà trong đó con người cùnglàm việc với nhau có thể hoàn thành các mục đích, mục tiêu chung – đã ngụ ý về điều đó. Thiết kế là việc áp dụng kiến thức vào một vấn đề thực tiễn nhằm đạt kết quả tốt nhất có thể cho tình huống đang xét. Áp dụng kiến thức vào thực tại nhằm thu được các kết quả mong muốn – đó là tất cả những gì quản lý muốn hướng tới.

Quản lý là một khoa học, một nghệ thuật, một nghề

Cách tiếp cận chiến lược
     Các nhà quản lý ngày nay cần có tư duy chiến lược trong giải quyết mọi vấn đề cho hệ thống của mình. Cách tiếp cận chiến lược đòi hỏi các nhà quản lý luôn đặt ra và trả lời các câu hỏi cơ bản: Chúng ta đang ở đãu trong mối quan hệ với mồi trường ? Chúng ta muốn đi tới đãu trong tương lai dài hạn? Chủng ta phải làm gì, làm thế nào và bằng gì để đến được đỏ? Hành động của chúng ta sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tương lai của chúng ta và các bên có liên quan khác?
Quản lý là một khoa học, một nghệ thuật, một nghề
Quản lý là một khoa học
     Tính khoa học của quản lý xuất phát từ tính quy luật của các quan hệ quản lý trong quá trình hoạt động của hệ thống xã hội bao gồm những quy luật kinh tế, xã hội, công nghệ, quản lý, v.v. Những quy luật này nếu được các nhà quản lý nhận thức và vận dụng trong quá trình quản lý sẽ giúp họ đạt kết quả mong muốn, ngược lại sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường.
     Tính khoa học của quản lý đòi hỏi các nhà quản lý trước hết phải nắm vững những quy luật liên quan đến quá trinh hoạt động của hệ thống xã hội. Nắm quy luật, thực chất là nắm vững hệ thống lý luận về quản lý gắn liền với các khái niệm, nguyên tác, lý thuyết và kỹ thuật quản lý. Tính khoa học của quản lý còn đòi hỏi các nhà quản lý phải biết vận dụng các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, những thành tựu tiến bộ của khoa học và công nghệ như các phương pháp dự đoán, phương pháp tâm lý xã hội học, các công cụ xử lý, lưu trữ, truyền thông: máy vi tính, máy fax, điện thoại, mạng internet, v.v.
Quản lý là một nghệ thuật
     Quản lý, giống như mọi lĩnh vực thực hành khác dùlà y học, soạn nhạc, xây dựng công trình, hay kế toán) đều là nghệ thuật. Đó tà “bí quyếthành nghề”, gắn liền với sự thực hiện các công việc dưới ánh sáng thực tại của các tình huống.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghệ thuật quản lý nhân sự

Nghiên cứu có ý thức về hệ thống

      Những nhà quản lý thông minh và nhiều tác giả viết về quản lý có kinh nghiệm có thói quen xem xét các vấn đề và các hoạt động của họ như một mạng lưới của các yếu tố có quan hệ tương hỗ và tác động qua lại thường xuyên với môi trường bên trong và bên ngoài hệ thống được quản lý. Họ thường ngạc nhiên khi nhận thấy một số người viết về quản lý lại cho rằng quan điểm tiếp cận hệ thống là một cái gì đó mới mẻ.

Nghiên cứu có ý thức về hệ thống

     Thực ra việc nghiên cứu có ý thức về hệ thống đã làm cho các nhà quản lý và các học giả xem xét một cách đầy đủ hơn các yếu tố tác động qua lại có ảnh hưởng tới lý thuyết và thực hành quản lý. Cách tư duy hệ thống chẳng qua là sự thừa nhận rằng, bất kỳ một lĩnh vực kiến thức hoặc thực hành nào đều được cấu thành từ nhiều thảnh phần tương tác và chịu ảnh hưởng bởi nhiều yểu tổ khác thuộc môi trường bên ngoài mà trong đó một hệ thống nhất định hoạt động.

Cách tiếp cận tình huống

     Thực hành quản lý đòi hòi các nhà quản lý phải xem xét bối cảnh của từng tình huống khi áp dụng các khái niệm, nguyên tắc, lý thuyết và kỹ thuật quản lý. Kiến thức quản lý không thể cung cấp công cụ tốt nhất để giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong thực tế. Việc kiến thức được ảp dụng như thế nào còn tuỳ thuộc vào tình huống. Điều này đòi hỏi khi ra các quyết định về kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát cho một hệ thống xã hội, các nhà quản lý phải tiến hành phân tích bối cảnh của môitrường bên ngoài và bên trong của hệ thống đó và tìm ra các phương thức riêng phù hợp.

     Quản lý là một nghệ thuật, việc nghiên cứu quản lý sẽ không đem lại cho bạn câu trả lời cụ thể về điều cần làm trong mỗi tình huống quản lý. Tuy nhiên, có kiến thức về các nguyên tắc, lý thuyết và kỹ thuật quản lý sẽ giúp bạn trở thành một nhà quản lý tốt hơn. Điều này cũng đúng trong các lĩnh vực khác. Các kỹ sư thiết kế tốt nhất là những người có kiến thức đáng kể về khoa học cơ sở, nhà phân tích tài chính tốt nhất là những người hiểu về lý thuyết hạch toán. Tuy nhiên điều này không có ý nghĩa là mọi kỷ sư được đào tạo tốt nhất về các khoa học cơ sờ đều luôn luôn là nhà thiết kế tốt, hoặc bất kỳ người nào biết về lý thuyết hạch toán đều sẽ là một nhà phân tích tài chính sắc sào. cần phải có những cái khác ngoài kiến thức. Các nhà thực hành phải biết làm thế nào để áp dụng kiến thức của họ vào lĩnh vực mà họ hoạt động. Kiến thức là cơ sờ cho thực hành quản lý. Các nhà quản lý vận dụng lý thuyết nhưng quản lý không bao giờ chỉ là lý thuyết.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản lý kinh tế

Cách tiếp cận trong quản lý hệ thống xã hội

      Trong môi trường ngày nay, các nhà lãnh đạo phải biết nhìn xa trông rộng – có khả năng nhìn trước tương lai, chia sẻ tầm nhìn, trao quyền cho nhân viên để hiện thực hoá tầm nhìn, góp phần xây dựng nền văn hóa phát triển. Để trở thành các nhà lãnh đạo có hiệu lực, nhà quản lý phải hiểu động lực của các cá nhân và nhóm, có khả năng khuyến khích con người, phải là người truyền thông hữu hiệu, nhà tư vấn đáng tin cậy, nhà đàm phán tài ba, người giải quyết xung đột và nhà chính trị khéo léo. Chỉ có thông qua sự lãnh đạo hữu hiệu mới có thể đạt được các mục tiêu của các hệ thống xã hội.

Cách tiếp cận trong quản lý hệ thống xã hội

Kiểm soát

      Các nhà quản lý phải làm chủ được quá trình thực hiện kế hoạch chiến lược và kế hoạch hành động. Kiểm soát cung cấp thông tin phản hồi về các hoạt động, xác định khoảng cách giữa kế hoạch và kết quả thực tế. Khi một hệ thống không có được sự thực hiện như kế hoạch đã định, các nhà quản lý phải hành động. Những hành động đó có thể là tiếp tục theo đuổi kế hoạch ban đầu một cách kiên quyết hơn hoặc điều chỉnh kế hoạch và việc triển khai cho phù hợp với tình hình thực tế. Kiểm soát là một chức năng quan trọng của quá trinh quản lý bởi vì nó đưa ra các biện pháp để đảm bảo rằng hệ thống đang vận hành đúng hướng về phía các mục tiêu đã đề ra. Các nhà quản lý muốn biết cụ thể ba điều: hiệu lực của kế hoạch – mức độ đạt được mục tiêu, hiệu quả – nguồn lực phải sử dụng để đạt được một kết quả nào đó và năng suất – số lượng và chất lượng của kết quả hoạt động trong mối quan hệ với chi phí của các nguồn lực.

Cách tiếp cận trong quản lý hệ thống xã hội

Cách tiếp cận hệ thống

     Lý luận và thực hành quản lý đòi hỏi cách tiếp cận hệ thống – xem xét quản lý như là một hệ thống được lập nên từ các hệ thống con và hoạtđộng trong phạm vi môi trường chung. Theo hình 1-8, cách tiếp cận hệ thống trong quản lý thể hiện qua những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, hoạt động quản lý được thực hiện dựa trên cơ sờ của hệ thống các khái niệm, nguyên tắc, lý thuyết, kỹ thuật quản lý.

Thứ hai, theo quá trinh, quản lý là một chỉnh thể thống nhất của các chức năng quản lý là lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát.

Thứ ba, mỗi chức năng quản lý đều có mục tiêu mang tính độc lập tương đối, nhưng đều hướng tới những mục tiêu, mục đích chung của quản lý.

Thứ tư, hoạt động quản lý luôn gắn liền và có sự tác động qua lại với các biến số của môi trường bên trong và bên ngoài hệ thống được quản lý. Nói tóm lại các hệ thống xã hội là những hệ thống mở.


Lập kế hoạch để quản lý tất cả các cấp độ hệ thống

Lập kế hoạch

     Quản lý tất cả các cấp độ hệ thống xã hội phải gắn với lập kế hoạch. Lập kế hoạch là quá trình thiết lập các mục tiêu và xác định các hành động cần thiết để đạt được các mục tiêu đó. Thông qua lập kế hoạch, các nhà quản lý xác định các kết quả mong muốn và con đường để đạt được các kết quả đó.

Lập kế hoạch để quản lý tất cả các cấp độ hệ thống

     Trong khi các nhà quản lý cấp cao lập các mục tiêu và phương thức chiến lược chung, các nhà quản lý cấp trung và cấp cơ sở phải phát triển các kế hoạch hành động để các nhóm làm việc của mình đóng góp vào các nỗ lực của toàn hệ thống. Tất cả các nhà quản lý phải phát triển các mục tiêu gắn liền với và hỗ trợ cho chiến lược chung. Thêm vào đó, họ phải xác định được phương thức phối hợp các nguồn lực mà họ chịu trách nhiệm quản lý nhằm đạt được các mục tiêu của nhóm làm việc.

Tổ chức

     Ngay cả kế hoạch tốt nhất cũng sẽ thất bại nếu không được triển khai đúng đắn. Là hoạt động đầu tiên của quá trình triển khai kể hoạch, chức năng tổ chức giúp đảm bảo nguồn lực trong các hình thái cơ cấu nhất định cho thực hiện mục tiêu kế hoạch. Đó là việc xác định các nhiệm vụ cần được thực hiện, ai sẽ thực hiện chúng, thực hiện bằng gì và các nhiệm vụ đó được phối hợp như thế nào. Các nhà quản lý tổ chức các thành viên trong nhóm làm việc của mình và của toàn hệ thống, hỗ trợ họ bằng công nghệ và các nguồn lực khác, nhờ vậy các nhiệm vụ được thực hiện trôi chảy, các nguồn lực được sử dụng hợp lý và hiệu quả. Các vấn đề về văn hoá của tổ chức và quản lý nguồn nhân lực cũng là các yếu tổ cơ bản của chức năng này. Quan trọng nhất, tổ chức phải được cấu trúc theo những mục tiêu chiến lược và hoạt động để có thể phản ứng với những thay đổi của môi trường luôn biến động.

Lãnh đạo

      Trong quản lý, lãnh đạo là quá trình khơi dậy và nâng cao động lực hoạt động cho con người nhằm đạt tới các mục tiêu kế hoạch. Thông qua lãnh đạo, các nhà quản lý tạo sự cam kết đối với tầm nhìn chung, khuyến khích các hoạt động hỗ trợ cho mục tiêu, gây ảnh hưởng lên người khác để họ thực hiện công việc một cách tốt nhất vì lợi ích của toàn hệ thống. Do môi trường đầy phức tạp và thay đổi nhanh chóng, các kỹ nâng lãnh đạo trở nên ngày càng quan trọng đối với các nhà quản lý ở tất cả các cấp độ. Vì vậy chúng ta tin tưởng rằng các nhà quản lý ngày hôm nay cũng phải là một nhà lãnh đạo và chúng ta sử dụng các thuật ngữ này có thể thay thế cho nhau trong cả cuốn sách.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: ngành quản lý kinh tế
 
;