Elton Mayo (1880 -1949): Tập trung vào các mối quan hệ con người

     Xét về mặt khoa học, cuộc nghiên cửu ở nhà máy Hawthornes thuộc Công ty Điện lực miền Tây (Western Electric Company) ở gần Chicago là một sự kiện lớn trong lịch sử phát triển của lý thuyết quản lý. Tại đãy, năm 1942, đã có một cuộc nghiên cứu về sự tác động của các yếu tổ vật chất (tiếng ồn, ánh sáng, độ nóng, v.v.) đến năng suất lao động của hai nhóm nữ công nhân. Kết quả .cho thấy khi các điều kiện vật chất được cải thiện, năng suất lao động đã nâng cao hơn. Tuy nhiên, khi làm cuộc thí nghiệm ngược lại, các nhà nghiên cứu thấy rằng năng suất lao động của công nhân vẫn tiếp tục tăng cho dù các điều kiện vật chất đã bị hạ thấp xuống như lúc khởi đầu.

Elton Mayo (1880 -1949): Tập trung vào các mối quan hệ con người

     Elton Mayo – một giáo sư về tâm lý học của trường Harvard – đã nghiên cứu và giải thích hiện tượng nghịch lý này. Trong 5 năm (1927 – 1932), Mayo đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu khác nhau và có nhiều khám phá quan trọng làm nền tàng cho quản lý. Trong ba cuộc nghiên cứu liên tục, ông lần lượt phát hiện ra: ánh sáng không gây ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân; các điều kiện làm việc cũng không có hoặc ít có quan hệ với năng suất; tiền lương và tiền thưởng cũng không tạo ra tác động nào đáng kể trong năng suất lao động của tập thể. Trái lại, những yếu tố chủ yếu có can dự đến năng suất lại là những yếu tổ phi vật chất. Ông rút ra một số kết luận: (i) tâm lý và hành vi của con người có quan hệ rất chặt chẽ với nhau; (ii) khi con người làm việc trong nhóm, thì nhóm có ảnh hưởng lớn đến hành vi của cá nhân; (iii) với tư cách thành viên của một nhóm, công nhân có xu hướng tuân theo các qui định của nhóm, kể cả những qui định không chính thức, hơn là chịu sự tác động của các yếu tổ kích thích bên ngoài.

     Những khám phá này đưa đến nhận thức mới về yếu tổ con người trong quản lý. Mặc dù bị nhiều chỉ trích về tính khoa học của các phương pháp được áp dụng, công trình của Mayo tại nhà máy Hawthornes đã mở ra một kỉ nguyên mới cho quản lý học, được gọi là “phong trào quan hệ con người”, đối nghịch lại với “phong trào quản lý theo khoa học” của Taylor trước đó. Với sự nhấn mạnh mối quan hệ con người trong quản lý, các nhà quản lý phải tìm cách gia tăng sự thỏa mãn tâm lý và các nhu cầu tinh thần của nhân viên, phải tạo lập và duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong nhóm, giữa người quản lý – giám sát và người lao động, đó là những nhân tổ quan trọng nhất để tăng năng suất lao động.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: ngành quản lý kinh tế  

Những nguyên tắc quản lý hành chính của Fayol

       Fayol cũng cho ràng, có những nguyên tác quản lý hành chính chung cho các loại hình tổ chức khác nhau. Các nguyên tắc này không cứng nhắc, tuyệt đối mà sự vận dụng nó phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể, phải linh hoạt như một nghệ thuật, đòi hỏi ở nhà quản lý trí thông minh, kinh nghiệm và sự quả quyết. Các nguyên tắc đó là:

Những nguyên tắc quản lý hành chính của Fayol

  1. Phân công lao động và chuyên môn hóa, nhằm tạo ra năng suất lao động cao. Phân công phải phù hợp, rõ ràng và tạo sự liên kết.

  2. Quyền hạn: người quản lý phải có quyền hạn chính thức để ra quyết định, đồng thời phải có uy tín cá nhân (có được từ năng lực, kinh nghiệm và phong cách). Quyền hạn phải đi đôi với trách nhiệm.

  3. Kỉ luật: người lao động phải tự nguyện tuân thủ nội quy của tổ chức. Kỷ luật tốt là nhờ tổ chức quản lý có hiệu lực, nhờ công bằng hợp ỉý trong đãi ngộ, nhờ thưởng phạt công minh.

  4. Chỉ huy thống nhất: mỗi cấp dưới chỉ nhận mệnh lệnh từ một cấp trên.

  5. Chi đạo nhất quán: lập một cơ quan quản lý chỉ đạo duy nhất, có năng lực, có khả năng đưa ra được những quyết định dứt khoát, rõ ràng, chính xác.

  6. Hài hòa lợi ích: cá nhân phục tùng lợi ích chung, bộ phận phục tùng lợi ích toàn bộ tổ chức. Quản lý phải xử lý hài hòa khi có mâu thuẫn, xung đột lợi ích.

  7. Thù lao họp lý, ừả công thỏa đáng và sòng phẳng.

  8. Tập trung quyền lực quản lý: có hệ thống quyền lực thông suốt từ cao rihất đến thấp nhất. Việc ra quyết định phải tập trung vào cấp có quyền cao nhất.

  9. Trật tự: vật nào chỗ nấy.

  10. Sự hợp tình họp lý: những người lao động cần được đối xử một cách công bằng và hợp tình hợp lý.

  11. Ồn định chức trách: hạn chế việc thuyên chuyển, đổi việc; tạo điều kiện học tập và tích lũy kinh nghiệm.

  12. Kiểm tra tất cả mọi công việc.

  13. Sáng tạo: trao đủ quyền chủ động cho cấp dưới, thúc đẩy óc sáng tạo và sự hứng thú trong công việc.

  14. Tinh thần đồng đội: tăng cường ý thức tập thể, sự thống nhất và đoàn kết hỗ trợ giữa những người lao động trong một tổ chức.

     Khác với Taylor xem xét mối quan hệ quản lý từ cấp thấp nhất của quản lý, Fayol xem xét quản lý từ trên xuống, tập trung vào việc tổ chức bộ máy lãnh đạo của các hãng lớn; và ông đi đến kết luận rằng thành công của người quản lý không phải nhờ những phẩm chất cá nhân mà nhờ những phương pháp được áp dụng và những nguyên tắc chỉ đạo hành động của người quản lý đỏ. Nhấn mạnh vai trò quan trọng của các phương pháp và nguyên tắc khoa học là điềm chung giừa Taylor và Fayol trong cách tiếp cận về quản lý.

      Tóm lại, thuyết quản lý của Fayol đà chi ra chức năng và nguyên tắc quản lý mang tính thống nhất đối với mọi loại hình tổ chức, không phân biệt mục tiêu và tính chất của tổ chức. Nó có ưu điểm là tạo ki cương trong tổ chức, song chưa chủ trọng đầy đủ đến các mặt tâm lý và môi trường xã hội của người lao động, chưa đề cập đến mối quan hệ giữa xí nghiệp với khách hàng, thị trường, các đối thủ cạnh tranh và các ràng buộc nhà nước. Quá trình quản lý của ông có vè cứng nhắc, chuẩn mực chứ không đa dạng như trên thực tế. Tuy vậy, sự đóng góp của ông cho Quản lý học vẫn rất độc đáo và có giá trị.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản lý học

Thuyết quản lý hành chính của Luther Gulick và Lyndal Unwick

      Luther Gulick và Lyndal Urwich là hai tác giả đã có một tuyển tập các bài viết về lý thuyết tổ chức và hành chính công, căn cứ trên kinh nghiệm quản lý công nghiệp và chính quyền. Có thể nói các bài viết của Luther Gulick và Lyndal Unwick về quản lý hành chính đã khẳng định thêm sự tiến triển của Quản lý học trên thế giới.

Thuyết quản lý hành chính của Luther Gulick và Lyndal Unwick

      Hai ông đã đưa ra thuật ngữ “POSDCORB” nổi tiếng, viết tắt bằng những chữ cái đầu của tiếng Anh thể hiện các chức năng cơ bản của nhà quản lý, đó là:

      Planning – Lập kế hoạch; Organizing – Tổ chức; Staffing – Công tác cán bộ; Directing – Chi huy; Coordinating – Phối họp; Reporting – Báo cáo; Budgeting – Lập ngân sách.

      Theo Gulick và Unwick, các chức năng quản lý nêu trên có tính phổ biến cho mọi tổ chức và được xem như kĩ thuật tổng quát của quản lý. Theo thời gian, những chức năng trên đã trở thành “các nguyên tắc khoa học cẩm nang” trong tâm trí của nhiều học giả và các nhà quản lý thực hành. Thực ra, những chức năng đó về bản chất không phải là những thực tế bất biến, song nóđơn giản và dễ hiểu để hình dung các hoạt động quản lý cần phải có của bất kì một tổ chức nào.

     Trong một bài viết về quản lý xuất bản năm 1937, Gulick và Unwickcòn nhấn mạnh đến 8 yếu tổ mang tính nguyên tắc sau đãy: (1). Phải bố trí đúng người vào bộ máy tổ chức; (2). Phải có một nhà quản lý cao cấp nhất trong một tổ chức nắm giữ nguồn gốc của quyền hành; (3). Phải tuân thủ triệt để nguyên tắc thống nhất điều khiển; (4). Phải có các nhân viên chuyên môn cùng với các nhân viên tổng hợp; (5). Phải thành lập các đom vị nhỏ trong tổ chức căn cứ theo mục tiêu, tiến trình và địa điểm; (6). Phải ủy quyền; (7). Phải cân đối giữa quyền hành và trách nhiệm; (8). Phải xác định tầm quản lý thích họp, sử dụng công thức để xác định số lượng tổi thiểu và tổi đa cấp dưới mà một người quản lý có thể giám sát một cách hiệu quả.

       Hai tác giả cho rằng các nguyên tắc trên là quan trọng, nhưng lại không chú ý đến noi có thể áp dụng những nguyên tắc đó. Vì quá chú trọng đến nguyên tắc mà một số vấn đề mấu chốt của quản lý chưa đưa ra được.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh tế học quản lý

Thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol

       “Thuyết quản lý hành chính” là tên được đặt cho một nhóm các tư tưởng quản lý của một số tảc giả ở Mỹ, Pháp, Anh, Đức nêu lên vào những thập kỉ đầu thế kỉ XX. Nếu các thuyết quản lý theo khoa học tập trung vào việc nâng cao năng suất lao động theo hướng vi mô, thì thuyết quản lý hành chính tập trung sự chú ý vào những nguyên tắc quản lý lớn áp dụng cho những cấp, bậc tổ chức cao hơn. Các tác giả tiêu biểu của thuyết quản lý hành chính là Henry Fayol của Pháp, Max Weber của Đức, Chester Barnard của Mỹ.

Thuyết quản lý hành chính của Henry Fayol

        Henry Fayol (1841 -1925)

       ‘Henry Fayol là người đưa ra thuyết quản lý hành chính ở Pháp, được đánh giá là một “Taylor của Châu Âu” và là “người cha thực sự của lý thuyết quản lý hiện đại”.

        Fayol phân loại hoạt động của một hãng kinh doanh cũng như của bất kl tổ chức nào thành 6 nhóm: (1). Kĩ thuật; (2). Thương mại; (3). Tài chính; (4). Bảo vệ an ninh về người và tài sản; (5). Hạch toán, thống kê; (6). Quản lý hành chính.

      Ông cho rằng nhóm 6 (quản lý hành chính) có liên quan tới cả 5 nhỏm hoạt động bên trên và là sự bao trùm để tạo ra sức mạnh tổng hợp của một tổ chức. Chức vụ càng cao thì đòi hỏi năng lực quản lý hành chính càng lớn; còn ờ cấp dưới thì năng lực chuyên môn là quan trọng nhất.

       Fayol định nghĩa: Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra. ông là người đầu tiên nêu một cách rõ ràng các yếu tổ của quá trình quản lý, cách thức phân tích một quá trình quản lý phức tạp thành các chức năng tương đối độc lập và mang tính phồ biến đổi với các tổ chức, gồm:

     Dự đoán – lập kế hoạch là nội dung quan trọng hàng đầu của quản lý hành chính. Công tác kế hoạch là cần thiết vì nó tránh được sự do dự, lường trước những thay đổi, những khó khăn. Tuy nhiên ông cùng chì ra tính tương đổi của công cụ kế hoạch là không thể dự đoán trước được tất cả những sự việc bất ngờ có thể xảy ra, do đó kế hoạch cần phải có tính linh hoạt để ứng phó.

     Tổ chức toàn bộ chức năng này có thể chia thành hai bộ phận chính: tổ chức vật chất và tổ chức con người. Đóng góp nổi bật của ông là đưa ra trật tự thứ bậc trong bộ máy quản lý với sơ đồ tổ chức quản lý gồm ba cấp cơ bản. Cấp cao nhất là Ban giám đốc chi đạo mọi hoạt động trong tổ chức; cấp giữa là các nhà quản lý bậc trung – những người lập kế hoạch, tuyển chọn nhân viên, chỉ đạo các bộ phận, tổ chức thực hiện mục tiêu đề ra. cấp thấp nhất là các nhà quản lý cơ sở, mang tính tác nghiệp. Trật tự đó thể hiện sự phân phối quyền hạn và trách nhiệm với ranh giới rõ ràng.

       Điều khiển muốn làm được nhiệm vụ này, người quản lý phải động viên và thúc đẩy hành động của con người, đề cao tính tích cực, sáng tạo, tính kỉ luật và sự trung thành của cấp dưới.

       Phối hợp chức năng này nhằm đạt được sự thống nhất bằng cách: Kêt họp hài hòa tất cả các hoạt động; Cân bằng hợp lý các khía cạnh vật chất, xã hội và các chức năng; Duy trì cán cân tài chính; Áp dụng mọi biện pháp thích đáng để mọi hoạt động đều hướng vào mục đích chung.

      Kiểm tra là chức năng cuối cùng. Đó là giám sát việc thực hiện kế hoạch, cung cấp các thông tin một cách chính xác và thường xuyên để các cấp quản lý kịp thời điều chỉnh và rút kinh nghiệm.


Thuyết quản lý theo khoa học

       a. Henry Lawrence Gantt (1861-1919)

        Gantt đã đóng góp phát triển thuyết quản lý theo khoa học của Taylor qua ba tư tưởng chính:

Thuyết quản lý theo khoa học

  • Vấn đề dân chủ trong công nghiệp: coi trọng con người, đề cao quan hệ hợp tác hòa hợp giữa người quản lý với công nhân; chú trọng sự công bằng về cơ hội (mỗi cá nhân đều có cơ hội như người khác để phát huy năng lực của mình ở mức cao nhất).

  • Coi tiền thưởng là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy công việc (chứ không phải là hình phạt, kỷ luật), Gantt cho rằng hệ thống trả lương theo sản phẩm do Taylor đề xướng không có tác động nhiều đến sự kích thích công nhân. Do đó Gantt đã bổ sung vào việc trả lương theo sản phẩm của Taylor bằng hệ thống tiền thưởng. Theo hệ thống này, nếu công nhân vượt mức sản phẩm phải làm trong ngày, họ sẽ được hưởng thêm một khoản tiền. Đặc biệt, trong trường hợp đó, cả người quản lý trực tiếp công nhân cũng được thưởng.

  • “Biểu đồ Gantt” nhằm kiểm tra việc thực hiện công việc theo kế hoạch. Biểu đồ này cho thấy, sản lượng dự tính (số lượng đặt ra), tiến trình của công việc (số lượng hoàn thành) và tỉ lệ giao hàng (số lượng xuất kho) theo dòng thời gian.

      b. Lilian Gilbreth và Frank Gilbreth

     Trong lúc F.Taylor tìm cách làm cho công việc được hoàn thành nhanh hơn bằng cách tác động vào công nhân, thì Lilian Gilbreth (1878 – 1972) và Frank Gilbreth (1868 – 1924) tìm cách gia tăng tốc độ bằng cách giảm các thao tác thừa. Với quan niệm đó, ông bà Gilbreth đã khám phá ra rằng trong 12 thao tác mà người thợ xây thực hiện để xây gạch lên tường có thể rút xuổng còn 4 và nhờ đó mỗi ngày một người thợ có thể xây được 2700 viên gạch thay vì 1000 mà không cần phải hối thúc. Ông bà Gilbreth cũng cho rằng thao tác có quan hệ đến sự mệt mỏi của công nhân, do đó bớt số lượng thao tác thì cũng giảm được sự mệt nhọc. Lilian- Gilbreth là một trong những người đầu tiên lưu ý đến khía cạnh tâm lý trong quản lý với luận án tiến sĩ nhan đề “Tâm lý quản lý”. Rất tiếc do sự kì thị nam nữ ở Mỹ vào thời gian đó, tư tưởng khoa học của Lilian Gilbreth đã không được quan tâm chú ý.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghệ thuật quản lý

Nhận xét về thuyết quản lý theo khoa học của Taylor

      Thuyết Quản lý theo khoa học của Taylor không chỉ là một tập họp các nguyên tắc và biện pháp kĩ thuật thuần túy, mà là sự hợp tác, hài hòa những mối quan hệ cơ bản giữa con người với máy móc, kĩ thuật; giữa người với người trong quá trình sản xuất, đặc biệt giữa người quản lý và người lao động. Nhờ áp dụng thuyết này tại các xí nghiệp công nghiệp ở Mĩ thời kì đó, năng suất lao động đã tăng vượt bậc, giá thành hạ; kết quả cuối cùng là lợi nhuận cao, cả chủ và thợ đều có thu nhập cao.

Nhận xét về thuyết quản lý theo khoa học của Taylor

       Thuyết Quản lý theo khoa học chủ yếu đề cập đến công việc quản lý ờ cấp cơ sở (doanh nghiệp) với tầm vi mô. Tuy nhiên, nó đãđặt nền móng rất cơ bản cho lý thuyết quản lý nói chung, đặc biệt về phương pháp làm việc tổi ưu (có hiệu quả cao), tạo động lực trực tiếp cho người lao động và việc phân cấp quản lý. Từ tinh thần cốt lõi đó, đã tạo ra một phong trào quản lý theo khoa học với “Hiệp hội Taylor” thu hút nhiều nhà quản lý tài năng góp phần hoàn thiện và phát triển lý thuyết này.

       Tuy nhiên, mặt hạn chế của thuyết này là sự hiểu biết phiến diện và máy móc về con người, bị chi phối bởi tư tưởng triết học “con người kinh tổ” mà tác giả tiếp nhận ở thời đại đó. Nhiều nhà phê bình cho rằng nói chung thuyết Quản lý theo khoa học của Taylor chỉ chú ý đến khía cạnh kĩ thuật, thiếu tính nhân bản. Thật vậy! Trước hết, với định mức lao động thường rất cao đòi hỏi công nhân phải làm việc cật lực. Hơn nữa, phân công lao động và chuyên môn hóa quá chi tiết tuy có làm năng suất lao động tăng lên nhưng khiến con người như một cái đinh ốc trong cỗ máy gắn chặt với dây chuyền sản xuất, bị méo mó về tâm – sinh lý.

       Để thực hiện các thao tác quá đơn giản trong suốt cuộc đời lao động, những người thợ không cần phải được đào tạo phát triển nâng cao trình độ, cũng có nghĩa là không có cơ hội thăng tiến và nhận được thu nhập cao hơn. Cũng có ý kiến cho rằng tư tưởng của Taylor là sản phẩm của thời đại ông sống cuối thế ki XIX, đầu thế kỉ XX, khi xã hội Mỹ đang muốn tìm cách tăng năng suất lao động của công nhân bằng các tiến bộ kĩ thuật, khi chưa có những nghiên cứu về tâm lý học, xã hội học để hiểu sâu sắc hơn bản chất con người như sau này.

        Taylor là người đã có những đóng góp lớn trong phong trào quản lý theo khoa học ở Mỹ đầu thế kỷ XX nhưng không phải là người duy nhất. Sau Taylor, một số tác giả khác đã nghiên cứu, phát triển, sáng tạo ra nhiều điểm mới nhằm hạn chế tính cơ giới, đề cao tính tích cực sáng tạo của người lao động, nhân đạo hóa quan hệ quản lý. Đóng góp đáng kể vào quá trình đó có công lao của Henry L. Gantt (1861 – 1919) về hệ thống tiền thưởng; của Ông bà Gilbreth về việc loại bỏ các động tác thừa và về cơ hội thăng tiến của người công nhân, v.v.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: nghệ thuật quản lý nhân sự

Tư tưởng quản lý của Frederick Winslow Taylor

      Với các công trình nghiên cứu “Quản lý ở nhà máy” (1903), “Những nguyên lý quản lý theo khoa học” (Principles of scientific management, năm 1911), ông đã hình thành thuyết Quản lý theo khoa học,một học thuyết rất có giá trị và ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ hoạt động quản lý ở Mỹ và châu Âu thời kì xã hội công nghiệp, mở ra “kỷ nguyên vàng” trong quản lý. Tên tuổi của F Taylor gắn liền với thuyết Quản lý theo khoa học và ở phương Tây người ta gọi ông là cha đẻ của quận lý học.

Tư tưởng quản lý của Frederick Winslow Taylor

     Các tư tưởng chính của thuyết Quản lý theo khoa học của Taylor là:

-          Tiêu chuẩn hóa công việc: Qua quan sát, phân tích các động táccủa công nhân, Taylor nhận thấy có những động tác thừa và mất nhiều sức khiến năng suất lao động bị hạn chế; từ đó rút ra kết luận cần phải hợp lý hóa lao động trên cơ sở định mức cụ thể với những tiêu chuẩn định lượng như một cách thức tổi ưu để phân chia công việc thành những công đoạn, những khâu hợp lý; định ra chuẩn mực để đánh giá kết quả lao động.Việc xây dựng định mức lao động chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp thực nghiệm: chọn công nhân khỏe, hướng dẫn họ những thao tác chuẩn xác, bấm giờ thực hiện từng động tác, lấy đó làm mức khoán chung. Đó là mức cao đòi hỏi phải làm cật lực song dược bù đắp bằng thu nhập từ tăng năng suất.

-           Chuyên món hóa lao động: Phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa trong tổ chức nhằm đạt yêu cầu “tốt nhất” (do thành thục trong thao tác) và “rẻ nhất” (do không có động tác thừa và do chi phí đào tạo thấp). Việc này trước hết phụ thuộc nhà quản lý trong tổ chức sản xuất. Tổ chức sản xuất theo dây chuyền là hệ quả của hướng chuyên môn hóa lao động, trong đỏ mỗi công nhân chì thực hiện thường xuyên, liên tục một (hoặc vài) động tác đơn giàn. Từ đó, việc đào tạo công nhân hướng vào sự thành thạo hơn là tay nghề “vạn năng”. Taylor nhấn mạnh phải tìm những người thợ “giòi nhất” theo hướng chuyên sâu, dựa vào năng suất lao động cá biệt đó để xây dựng định mức lao động.Việc chuyên môn hóa lao động kéo theo yêu cầu cải tiến công cụ lao động theo hướng chuyên môn hóa (công cụ chuyền dùng cho từng động tác lao động đã được chia nhỏ) để dễ sử dụng nhất, tổn ít sức nhất và đạt năng suất cao nhất.

-         Cải tạo các quan hệ quản lý: Duy trì bầu không khí họp tác giữa người điều hành và thợ cũng là một yếu tổ quan trọng của môi trường lao động. Quản lý phải giải quyết mâu thuẫn gay gắt giữa chủ và thợ không chi bằng một hệ thống các giải pháp kĩ thuật mà còn bằng phương thức quản lý khiển cả chủ và thợ có thể gắn bó hợp tác với nhau trong một tổ chức để cùng đi tới mục tiêu chung lả nâng cao hiệu quả và năng suất lao động. Taylor cho đó là sự mở đầu “một cuộc cách mạng tinh thần vĩ đại” nhằm thay đổi toàn bộ tinh thần, thái độ của cả đôi bên trên cơ sở hòa giải, hợptác và niềm tin cậy lẫn nhau. Taylor cũng thấy được động cơ thúc đẩy lao động – môi quan tâm của cà đôi bên – là lợi ích kinh tế, phải được xử lý hài hòa qua chếđộ lương thưởng hợp lý; chi có như vậy các cách thức tổ chức sản xuất một cách khoa học mới phát huy được tác dụng cao. Với nội dung này, thuyết quản lý theo khoa học của Taylor nhấn mạnh vai trò của quản lý, của năng lực tổ chức và nhân tổ con người.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản lý kinh tế

Tư tưởng quản lý cổ đại của Democrit và Agristot ở phương Tây




      1. Democrit (460- 370 TCN)

     Theo ông, Nhà nước có nhiệm vụ quản lý mọi hoạt động của xã hội. Để quản lý đất nước, có thể lựa chọn ba phương pháp cơ bản:

Tư tưởng quản lý cổ đại của Democrit và Agristot

  • Phương pháp dân chủ đối với con người;

  • Phương pháp dùng hình phạt đối với các hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức xã hội;

  • Phương pháp tác động lên nhu cầu và lợi ích của con người, qua đó khiến con người tuân thủ. Mãi đến những năm 50 của thế kỉ XX, phương pháp này mới được các tác giả của trường phái hành vì tiếp cận một cách cụ thể.

     Rõ ràng là cho đến ngày nay, các phương pháp trên vẫn được kế thừa và phát triển, thể hiện qua các phương pháp quản lý như giáo dục thuyết phục, hành chính cưỡng bức và kinh tế trong quản lý các tổ chức cũng như quản lý nhà nước ngày nay.

2.   Agristot (384- 322 TCN)

     Trong số các nhà tư tưởng của phương Tây cổ đại, Agristot là người có tư tưởng quản lý tương đối hiện đại và khá hoàn thiện. Các tư tưởng cơ bản có liên quan đến quản lý của ông là:


  • Ông quan niệm con người là loài sính vật xã hội, mang bản tính loài, sổng cộng đồng. Do vậy tất yếu họ phải được quản lý theo một thể chế, thiết chế đặc biệt – đó là Nhà nước. Quyền lực nhà nước có thể chia thành 3 nhánh: lập pháp, hành pháp và phân xử. Đãy là tư tưởng quan trọng để sau này hình thành quan điểm nhà nước pháp quyền với “tam quyền phân lập”.

  • Nhiệm vụ cơ bàn của Nhà nước là làm cho mọi người sống hạnh phúc và giữ gìn trật tự xã hội. Do đó tiêu chuẩn để đánh giá Nhà nước là phúc lợi mà Nhà nước đem lại cho dân chúng và sự ổn định xã hội.

  • Với hai tác phẩm tiêu biểu là “Gia quản học” (chủ yếu nói về quản lý kinh tế trong gia đình, ông gọi đó là nghệ thuật kiếm tiền) và “Hoá tệ học” (chủ yếu bàn về thương mại, buôn bán), ông là người đầu đầu tiên nói đến quản lý vi mô. Trong hai tác phẩm đó, ông đề cập đến lập kể hoạch khi khẳng định vai trò của ý thức trong việc dự đoán, lường trước công việc cần làm và hiệu quả của nó.

     Tóm lại, đặc trưng của các tư tưởng quản lý thời cổ đại ở phương Tày cũng như phương Đông là: nó được hoà trộn với các tư tưởng về triết học chính trị, pháp lý, đạo đức, chưa phải là khoa học độc lập về quản lý; nó đề cập chủ yếu đến cách “trị nước”, vấn đề quản lý nhà nước nhưng còn ở mức độ sơ khai.


Quan niệm về Nhà nước lý tưởng và con người của Platon

       Platon là nhà triết học cổ đại Hy Lạp, các tư tưởng triết học của ông được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là có ảnh hường mạnh nhất trong lịch sử vặn minh cổ đại phương Tây, trong đó có nhiều nội dung liên quan đến quản lý nhà nước:

Quan niệm về Nhà nước lý tưởng và con người của Platon

  • Quan niệm về “Nhà nước lý tưởng ”

Theo ông, cần xây dựng một Nhà nước lý tưởng, vì đó là công cụ duy nhất có thể quản lý xã hội, làm cho mọi người dân luôn được sổng hạnh phúc và thoà mãn, của cải được phân chia đồng đều, tất cả lợi ích là vì xã hội.


  • Quan niệm về con người trong xã hội

        Platon cho rằng con người là nền tảng của bất cứ nền chính trị xã hội nào. Trong quản lý xã hội, phải tìm kiếm và sắp xếp những người phù hợp vào các công việc khác nhau tuỳ theo đặc điểm tâm lý mỗi người. Theo ông tâm lý con người có ba phần cơ bản là lý tính, xúc cảm và cảm tính, chi phổi hành vi con người. Những người có phần lý tính mạnh, biết kiềm chế xúc cảm và cảm tính thường là những người hiểu biết, có biểu hiện bề ngoài ôn hoà, là những người có thể gánh vác công việc của nhà nước. Những người có phần xúc cảm mạnh, biết kìm nén thú vui cảm tính, thường thích hợp với công việc bảo vệ nhà nước như quân đội, cảnh sát. Những người có phần cảm tính mạnh, ít bị chi phối bởi lý tính và xúc cảm, họp với công việc lao động sản xuất, trực tiếp tạo của cải cho xã hội. Mồi một hạng người phải biết sống với tầng lóp của họ, phải làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình. Đó là cách đóng góp tốt nhất cho xã hội.


  • Về người lãnh đạo quản lý đất nước

      Công việc trị nước vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, trong đó cần nhiều sự tận tâm và kiến thức. Theo ông, chỉ có hạng người triết gia, nhân đức mới thích hợp và đủ khả năng lãnh đạo đất nước, do đó cần chọn những vị minh triết, khôn ngoan và đức hạnh và loại bỏ những người ngu dốt, bịp bợm trong việc trị nước.

• Các giải pháp quản lý xã hội

-          Phải giáo dục tất cả trẻ em và đưa chúng về vùng thôn quê. Trong quá trình học sẽ có ba kỳ thi tuyển ứng vôi trình độ vả ngành nghề sau này: thứ nhất là nghề buôn bán, làm thợ, hay làm nông; thứ hai làm công tác phụ tá, sĩ quan, tham mưu trong quân đội; thứ ba làm viên chức chính phủ. Nếu làm trọn vẹn quá trình đào tạo như vậy sẽ bảo đảm được nội lực con người để xây dựng quốc gia.

-        Phải xây dựng luật pháp, coi luật pháp là tối thượng, bất di bất dịch và chiếm vai trò hàng đầu; đề cao tính tự nguyện, tự giác của mồi người trong chấp hành luật, vấn đề an ninh đã được giai cấp chiến binh gìn giữ, nhưng thật ra biện pháp giữ gìn trật tự hoàn hào nhất là trật tự từ tâm hồn của mọi người.

-      Phải tin vào một đấng tổi cao mặc dù đấng tối cao theo ông chưa chắc là có thật nhưng nó có tác dụng làm kích thích tinh thần của tất cả mọi người, khiến họ có thể kim nén lòng ích kỷ, sự đam mê mà phục vụ cho quốc gia.

-        Về phát triển kinh tế, ông chú trọng vào nghề nông, vì cho ràng một nhà nước lý tường không cần phát triển buôn bán vì nó tất yếu dẫn đến cướp bóc, chiến tranh, chỉ phát triển về nông nghiệp và thủ công nghiệp là đủ. Tất nhiên đây là một sai lầm lớn của ông.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: ngành quản lý kinh tế  

Nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là “thuyết hình danh”.

      Nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là “thuyết hình danh”. Theo thuyết này, muốn đánh giá con người phải xét cái sự thực đã làm (hình) và tên gọi của công việc (danh) có phù hợp với nhau không. “Trong đời, kẻ có tài chưa nhất định đã có đức, kẻ có đức chưa nhất định có tài, cho nên việc bổ nhiệm người nếu không có thuật thi sẽ bại”, ông nhấn mạnh việc dùng người phải hết sức thận trọng. Muốn vậy, phải có phương pháp nghe bề tôi nói; phải khảo sát nhiều mặt để biết lòng bề tôi; phải xem lời nói của họ có giá trị không; cuối cùng là giao chức cho họ, dùng thực tiễn kiểm tra thực lực của họ. Trong mỗi việc trên, ông đều có những kĩ thuật ti mỉ nhằm đạt được hiệu quả cao.

Nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là “thuyết hình danh”.

      Bàn về quản lý – cai trị, Hàn Phi Tử kế thừa tư tường vô vi của Nho và Đạo, biến nó thành thuật cai trị. Hàn Phi Tử chủ trương vô vi, nhưng không phải nhằm bớt đi sự điều hành, ngược lại, khuyên quan lại phải làm hết mình, cai trị gián tiếp bằng thường, phạt công bằng, nghiêm khắc.

        Có thể thấy, Hàn Phi Từ là người duy lý, duy lợi, theo chủ nghĩa thực dụng, song ông có một trí tuệ sâu sắc và nhiệt thành yêu nước. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử đã tạo ra một phương thức giải quyết vững chác và thực tế nhất trong vấn đề trị quốc thời kì đó. Dựa trên tư tưởng pháp tri,

       Tần Thuỷ Hoàng đã thống nhất Trung Quốc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên tại Trung Quốc. Song pháp luật mà Hàn Phi Tử đề cao là thử pháp luật hà khắc, tàn bạo, thiếu tỉnh nhân văn, khác xa với pháp luật ngày nay; mặt khác, pháp luật dù ở vị trí thượng tôn, trên muôn dân, nhưng lại dưới một người (nhà vua); đó là hạn chế của học thuyết pháp trị.

Từ khóa tìm kiếm nhiều: quản lý học

Các khái niệm cơ bản trong quản lý – cai trị của Hàn Phi Tử

      Hàn Phi Tử đưa ra ba khái niệm cơ bản trong quản lý – cai trị, đó là “thể” (chỉ quyền lực), “pháp” (chỉ luật pháp) và “thuật” (chỉ phương pháp quản lý). Đãy là ba vấn đề cốt lõi của quản lý – cai trị, có liên hệ khăng khít với nhau, trong đó “pháp” là yếu tổ quan trọng nhất và có tính quyết định.

Các khái niệm cơ bản trong quản lý – cai trị của Hàn Phi Tử

“Thể” và tư tưởng trong thế

     Hàn Phi Tử cho rằng vua không cần “hiền” mà cần “thế”, vua phải biết dựa vào thế của mình mà ban lệnh, buộc quan và dân phải răm rắp tuân theo. Theo ông, “thế” không liên quan đến đạo đức và tài trí của con người. Ông đặt địa vị, quyền thế lên trên tài, đức. Theo ông, chỉ cần tài, đức trung bình nhưng có quyền thế là trị được nước. Là người trọng thế, trọng sự cưỡng chế của quyền lực, Hàn Phi Tử chủ trương quyền lực phải được tập trung vào một người, đó là vua. Vua phải nắm quyền thưởng, phạt khiến mọi người tuân thủ triệt để. Hàn Phi Tử khen chính sách Đức trị của đạo Nho là đẹp nhưng chê là không thực tế, nên ông ra lệnh rằng: hễ làm đúng phép thì thưởng, trái phép thì phạt. Hàn Phi Tử cho rằng cách thưởng phạt là nguyên nhân làm cho quốc gia thịnh, suy, loạn lạc. Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, trị tội không chừa các quan và thưởng công không bỏ sót dân thường. Hàn Phi Tử đề ra tính nghiêm khắc, công bằng của pháp luật và khuyên vua, chúa phải vô tư, công minh khi sử dụng pháp luật. Song, chính ông lại thừa nhận mọi người đều hành động vì tư lợi; và đó là điểm mâu thuẫn trong học thuyết của ông.

“Pháp” và các tiêu chuẩn của luật pháp

    Trái với tư tường của Nho giáo vốn cho rằng để quản lý xã hội thì dùng đức trị, Hàn Phi Tử cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật. Hàn Phi Tử coi pháp luật là thứ dùng làm tiêu chuẩn để phân biệt đúng – sai, phải – trái. Pháp không tách rời Thế và Thuật, mà cùng tạo nên cái kiềng ba chân. Vua có quyền đặt ra luật pháp (lập pháp) nhưng không được tùy tiện mà phải hợp thời và tuân theo những nguyên tắc nhất định. Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi hành, phải thống nhất, ổn định để cho dân hiểu, phải ban hành cống khai, truyền bá tới mọi người để không một người dân nào có thể viện cớkhông biết luật pháp mà lỡ phạm pháp. Ông yêu cầu vua, quan phải “lấy luật pháp mà dạy dân”, phải truyền bá luật pháp như một “phép công” điều khiển hành vi của mọi người. Nhìn chung, pháp gia chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

“Thuật” và phương pháp thí hành quyền lực, pháp luật

     Thuật của vua chủ yếu là trị quan chứ không phải trị dân. Chữ “thuật” của Hàn Phi Tử có hai nghĩa: kĩ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật là cách thức, biện,pháp để tuyển, dùng, kiểm tra khả năng của quan lại. Tâm thuật là mưu mô để chế ngự quần thần không cho họ biết suy nghĩ thực của mình.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: kinh tế học quản lý

Mô hình quản lý của Hàn Phi Tử

     Là người có đầu óc thực tế mạnh mẽ và hiểu biết sâu rộng về lịch sử, Hàn Phi Tử đã sớm nhận ra những hạn chế của lý luận Nho gia. Ông phê phán nho giá là thiếu hiểu biết khi bắt thực tế phải khuôn theo lý luận đã quá lạc hậu, làm cho dân ngu, xã hội loạn.

Mô hình quản lý của Hàn Phi Tử

     Theo Hàn Phi Tử, lý luận phải phù hợp với thời thế thì mới có ích; “Việc phải theo thời, biện pháp phải thích hợp, phong tục xưa và nay khác nhau, biện pháp cũ và mới phải khác nhau”. Hàn Phi Tử quan tâm nhiều đến khoảng cách, địa vị giữa người cai trị và người bị trị, đồng thời ủng hộ chế độ chuyên chế phong kiến, cổ vũ cho sự độc tài của các vua. Ông viết: “Người thi hành pháp luật mà cường thì nước mạnh- người thi hành pháp luật mà nhu nhược thì nước yếu”.

     Hàn Phi Tử phê phán tư tưởng Nho gia coi “dân là gốc của nước”, cho đó là mị dân. Theo ông, “làm chính trị mà mong vừa lòng dân đều là mối loạn, không thể theo chính sách đó trị nước được”.

     Mặc dù vậy, Hàn Phi Tử là người đề cao chính sách dùng người. Tài năng của nhà cai trị thể hiện ở việc dùng sức, dùng trí của người khác. “Sức một người không địch nổi đám đông, trí một người không biết được mọi vật, dùng một người không bằng dùng cả nước. Vua chúa bậc thấp kém dùng hết khả năng của mình, bậc trung dùng hết sức của người, bậc cao dùng hết trí của người. Dùng hết trí của người thì vua như thần”. Đãy là một tư tưởng hết sức sâu sắc về quản lý con người của Hàn Phi Tử.

     Về quan hệ vua – tôi, theo Hàn Phi Tử là quan hệ quản lý một chiều. Ông khuyên vua dùng hết tài trí của dân nhưng không được gần gũi, tỏ lòng thương dân. Đây là tư tưởng phản dân chủ, trong đỏ người dân chỉ là một thứ công cụ của vua và phải tuyệt đối phục tùng người thống trị.

     Tư tưởng đức trị của Khổng Tử cho rằng có sự thống nhất giữa công và tư, giữa gia đình và xã hội. Ngược lại, Hàn Phi Tử cho rằng công – tư mâu thuẫn với nhau, phải hy sinh tư cho công, gia đình phải phục tùng và hy sinh cho xã hội, lợi ích quốc gia là tối thượng, quan trọng hơn dân. Về điểm này, mô hình quản lý của Hàn Phi Tử có nét giống với “mô hình quan liêu” của Max Weber thuộc trường phái hành chính cổ điển.


 
;